ANGKOR - nhìn từ trên cao

Máy bay sắp hạ cánh xuống Siem Reap Airport. Nhìn qua cửa sổ, Angkor Wat, Angkor Thom hiện ra dưới cánh máy bay với sừng sững tháp Bayon bốn mặt. Đỗ Thế, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Đông Á (Đà Nẵng) nói với tôi: “Những công trình kiến trúc này bị che khuất dưới rừng già, bị lãng quên cả gần chục thế kỷ người ta mới phát hiện ra…”. Tôi lơ đãng nhìn theo hướng nhìn của người bạn đồng hành. Trong đầu, hình dung theo những lớp, những tầng cuồn cuộn, vừa xoắn tròn đậm đặc vừa tan loãng trong không gian vô tận như những tầng mây trôi của đời người ngắn ngủi trong lịch sử.

Máy bay sắp hạ cánh xuống Siem Reap Airport. Nhìn qua cửa sổ, Angkor Wat, Angkor Thom hiện ra dưới cánh máy bay với sừng sững tháp Bayon bốn mặt. Đỗ Thế, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Đông Á (Đà Nẵng) nói với tôi: “Những công trình kiến trúc này bị che khuất dưới rừng già, bị lãng quên cả gần chục thế kỷ người ta mới phát hiện ra…”. Tôi lơ đãng nhìn theo hướng nhìn của người bạn đồng hành. Trong đầu, hình dung theo những lớp, những tầng cuồn cuộn, vừa xoắn tròn đậm đặc vừa tan loãng trong không gian vô tận như những tầng mây trôi của đời người ngắn ngủi trong lịch sử.

Mô tả ảnh.
Du khách thăm đền thờ ở Angkor Wat.
Năm 802, một người trong hoàng tộc Chân Lạp đã trốn khỏi trại tù binh, tập hợp lực lượng, đấu tranh thoát khỏi ảnh hưởng của Vương triều Sailendra, thống nhất Campuchia, mở đầu cho một thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử của dân tộc này là thời đại Angkor (802-1434), lấy niên hiệu là Jayavarman II. Vua Jayavarman II đã cố công tìm kiếm địa điểm mới để đặt kinh đô, qua nhiều lần dời đô, cuối cùng mới chọn địa điểm này. Theo tiếng Khmer, Angkor có nghĩa là kinh đô, Wat là đền thờ hay chùa, nơi để thờ vị thần Visnu của Ấn Độ giáo tại kinh đô của Đế quốc Khmer.

Nằm cách thủ đô Phnom Penh 240km về phía Bắc, Angkor Wat được xây dựng trong vòng 37 năm (1113-1150) dưới thời vua Suryawarman II, sau cuộc đại thắng quân Champa, có chu vi gần 6km và diện tích khoảng 200ha. Nhìn từ trên cao xuống, đỉnh tháp của ngôi đền chính có độ cao 65 mét, cầu thang đi lên chia thành bốn mặt, là nơi thờ các vị thần, trước đây là thần Visnu. Tầng hai, có tường thành bao bọc, bên trong là các gian điện thờ, khu vực thấp hơn là hệ thống thoát nước. Trên những bức tường thành có vô số những bức tranh vũ nữ Apsara đang nhảy múa với bộ ngực trần quyến rũ. Tầng một, là những dãy hành lang cao 2,5 mét, dài hơn 800 mét, là bức tranh to và dài nhất thế giới, ghi những điển tích trong kinh Bà la môn và chiến công của người tạo ra ngôi đền - vua Suryavarman II.

Angkor Thom là thủ đô cuối cùng và lâu dài nhất của Đế quốc Khmer, được xây dựng vào thế kỷ thứ XII, dưới thời vua Jayavarman VII, rộng 9 ki-lô-mét vuông, nằm cạnh bờ Tonle Sap, cách Angkor Wat 1,7km và cách thành phố Siem Reap 7,2km về phía Bắc. Công trình nổi bật nhất nằm ở trung tâm là đền Bayon với tượng thần Silva bốn mặt, bên ngoài là các hào nước bao quanh, tiếp theo là tường thành cao 8 mét, dài 3km được xây dựng bằng đá ong, trên đỉnh có các bờ công sự. Tại mỗi hướng Đông, Tây, Nam, Bắc có bốn cổng thành, có các ngọn tháp cao 23 mét. Trên mỗi cổng thành đều có tượng thần có khuôn mặt giống như thần Silva tại đền Bayon, nhằm làm thần hộ mệnh cho các hướng của Vương quốc.

Sự tương đồng của vô số khuôn mặt khổng lồ ở trên các tháp của đền Bayon với các bức tượng khác của vua Jayavarman VII khiến nhiều học giả đi đến kết luận đây chính là khuôn mặt của nhà vua. Bởi vì, ngay từ thời Jayavarman II sự sùng bái thần Silva có khuynh hướng biến thành sự sùng bái chính nhà vua. Ở những thành phố văn hóa, con người thường vươn mình che bóng in hình trên những công trình kiến trúc. Quả là, những người như Suryawatman II hoặc Jayavarman VII, khi ra đi còn để lại sau lưng chiếc bóng che khuất cả một khoảng trời sâu thăm thẳm  như chiều dài lịch sử của cả dân tộc.

Mô tả ảnh.
Tác giả trước đền đài Angkor Thom.
Tuy phong cách kiến trúc có khác nhau, nhưng hơn một nghìn ngôi đền với nhiều kích cỡ và hình dáng khác nhau, thể hiện sự kế thừa và phát triển những tinh hoa của thế giới, tạo nên phong cách kiến trúc đậm chất Khmer. Thể hiện rõ nhất là những hồ chứa nước bao quanh, vừa là công trình thủy lợi, vừa là biểu tượng tôn giáo, tượng trưng cho những đại dương bao quanh ngọn núi Meru, nơi cư ngụ của những vị thần trong truyền thuyết.

Theo anh Thạch Dara,  hướng dẫn viên du lịch cho đoàn chúng tôi, cho rằng trước đây bên dưới hồ còn nuôi vô số cá sấu để chống lại những cuộc tấn công của ngoại bang, tạo thành những chiến lũy quân sự hữu hiệu. Quy mô của các công trình hết sức hoành tráng, nằm tập trung ở khu vực dài 24km, rộng 8km, với khoảng 72 đền thờ chính. Những ngôi làng nhỏ nằm xung quanh quần thể đền đài, dọc theo các hồ nước có diện tích xấp xỉ 3.000km (tương đương 1.150 dặm vuông), gần bằng Los Angeles hiện nay. Năm 2007, các nhà nghiên cứu quốc tế đã sử dụng ảnh chụp qua vệ tinh và các kỹ thuật hiện đại khác để đi đến kết luận rằng Angkor là thành phố thuộc thời kỳ tiền công nghiệp lớn nhất thế giới.

Buổi sáng, khi đi vào Angkor Thom, tình cờ tôi làm quen với Koeyouko Haruki, một kỹ sư người Nhật, đang tham gia công cuộc trùng tu ngôi đền thứ mười tám phía Tây, bị đổ nát do chiến tranh. Theo Haruki, năm 1973, các nhà khảo cổ học người Pháp từng đến quản lý và trùng tu ở đây. Nhưng chiến tranh lan rộng, họ bỏ chạy. Quần thể kiến trúc với gần 200 đền miếu trong phạm vi 160km vuông trở thành căn cứ của quân Khmer Đỏ. Hiện nay, khắp các công trình còn lỗ chỗ những vết đạn. Một số khác do rễ cây mọc bám vào tường quật đổ hoặc xiêu vẹo. Công việc của các anh bây giờ hết sức khó khăn và phức tạp. Anh nói và đưa tay lên đầu, cùng với cái nhún vai và mái tóc xoăn cứ lúc lắc như xoắn tít vào nhau trông càng rối hơn. Haruki là người đã từng tham gia trùng tu các di tích ở Hội An. Anh nói tiếng Việt rất sõi và thích các món ăn Việt.

 Mỗi năm nơi đây đã đón từ ba triệu rưỡi đến bốn triệu lượt khách đến thăm. Trước mắt của tôi bây giờ nườm nượp những du khách, nhiều công trình đang được UNESCO khôi phục và được coi là một trong những kỳ quan thứ 8 của thế giới, tranh chấp cùng với các công trình như Vạn lý trường thành của Trung Quốc, tháp Effel của Pháp, lâu đài Pemukkale của Thổ Nhĩ Kỳ, thành phố Petra của Jordan.

Tôi rời thành phố đá vĩ đại nhất châu Á này trong tâm trạng ngưỡng vọng, khâm phục trước sức vóc của tiền nhân. Nhìn nghiêng qua dưới đôi cánh máy bay, nắng sớm mai rải đều trên những lâu đài đá nhấp nhô, phản chiếu mặt nước hồ lóng lánh, in bóng những hàng cây thốt nốt. Nó xuyên thấm, hòa trộn đến mức không thể phân biệt được sự rực rỡ kia là nhờ nắng, nhờ sương, nhờ nước hay nhờ đá trên những thành quách, hoặc là tất cả các yếu tố cộng lại. Đến lúc ấy, tôi mới chợt hiểu ra rằng, vì sao từ trên cao nhìn xuống, vẫn thấy được chiều kích nguy nga, sừng sững giữa không gian xanh thẳm của rừng già.

Phạm Phú Phong