3 tổ chức đồng loạt kiến nghị “Không phát triển thêm các dự án điện than mới”

Các tổ chức cho rằng, Bộ Công Thương xem xét tính phù hợp, khả thi và hệ lụy của kế hoạch tiếp tục phát triển điện than mới.
Các tổ chức cho rằng, Bộ Công Thương xem xét tính phù hợp, khả thi và hệ lụy của kế hoạch tiếp tục phát triển điện than mới.
(PLVN) - Liên minh Năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA), Liên minh Phòng chống các Bệnh không lây nhiễm Việt Nam (NCDs-VN) và Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam (VRN) vừa có kiến nghị, góp ý Bộ Công Thương về Dự thảo Đề án Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn tới năm 2045 (Quy hoạch điện VIII).

Theo đó, 3 tổ chức này kiến nghị Bộ Công Thương không phát triển thêm các dự án điện than mới, đặc biệt là trong giai đoạn 10 năm tới, thay vào đó có các giải pháp đồng bộ để đẩy mạnh hơn nữa phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời phân tán và điện gió.

Cụ thể, Liên minh năng lượng bền vững Việt Nam (VSEA), Liên minh Phòng chống các Bệnh không lây nhiễm Việt Nam (NCDs-VN) và Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam (VRN) cho rằng, Dự thảo Quy hoạch điện VIII này cho thấy xu hướng giảm dần tốc độ phát triển điện than và tăng dần tốc độ phát triển năng lượng tái tạo theo các giai đoạn. Tuy nhiên trong vòng 10 năm tới (2021-2030) nhiệt điện than vẫn được ưu tiên tăng mạnh – bổ sung khoảng 17 GW điện than mới vào hệ thống.

Tổng công suất nhiệt điện than bổ sung trong giai đoạn 2021-2045.
Tổng công suất nhiệt điện than bổ sung trong giai đoạn 2021-2045.

Vì vậy, các tổ chức này đề nghị Bộ Công Thương xem xét tính phù hợp, khả thi và hệ lụy của kế hoạch tiếp tục phát triển điện than mới như: bài học phát triển nhiệt điện than ở giai đoạn trước (2016-2020) cho thấy loại hình này gặp rất nhiều khó khăn về huy động vốn, người dân và chính quyền địa phương không ủng hộ,… dẫn tới chỉ đạt được khoảng 57,6% kế hoạch theo QHĐ VII điều chỉnh. “Trong giai đoạn 5 năm vừa qua, chỉ có khoảng 7 GW điện than vào vận hành, trong đó riêng năm 2020 chỉ có duy nhất 1 tổ máy (0,6 GW) vào vận hành. Những khó khăn này sẽ tiếp tục trong tương lai, dẫn tới nguy cơ tiếp tục chậm tiến độ của các dự án điện than” – các tổ chức này cho hay.

  Theo nghiên cứu mới đây của Trung tâm Nghiên cứu Năng lượng và Không khí Sạch (CREA) đánh giá tác động của các nhà máy nhiệt điện than ở 10 địa phương dự kiến bổ sung các dự án mới theo dự thảo QHĐ VIII, và tác động tới các địa phương trên cả nước. Nghiên cứu chỉ ra nếu 16 dự án điện than mới (với tổng công suất khoảng 22GW) được xây dựng và vận hành theo dự thảo QHĐ VIII, những dự án này sẽ gây ra gần 1000 ca tử vong sớm ở Việt Nam.

Tổn thất kinh tế cho xã hội do chi phí y tế, giảm năng suất lao động và tuổi thọ ước tính vào khoảng 270 triệu USD hàng năm. Tính theo vòng đời 30 năm của những dự án này, tổng số ca tử vong sớm ước tính khoảng 46.000. Tổn thất kinh tế cộng dồn sau 30 năm lên tới 8 tỷ USD”..

Bên cạnh đó, 86% công suất nguồn than mới phải sử dụng nhiên liệu nhập khẩu cho thấy sự phụ thuộc lớn vào nguồn cung bên ngoài, trong khi khả năng nhập khẩu từ các nguồn đang được xác định trong dự thảo dự báo gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng tới an ninh năng lượng quốc gia.

Cũng theo VSEA, NCDs-VN và VRN, các nhà máy điện than mới với công nghệ cao hơn không giải quyết được triệt để vấn đề môi trường, đồng thời khiến loại hình này trở nên đắt đỏ hơn so với phát triển các nguồn năng lượng tái tạo.

 “Nếu tiếp tục phát triển điện than mới sẽ đặt Việt Nam ở chiều ngược lại với xu thế của thế giới và nỗ lực thực hiện mục tiêu khí hậu của Thỏa thuận Paris. Để đạt được mục tiêu này thời hạn muộn nhất phải đóng cửa tất cả các nhà máy điện than trên toàn cầu là năm 2040. Các nhà máy điện than như dự thảo hiện tại sẽ tiếp tục vận hành ít nhất tới năm 2050, thậm chí tới 2070” - VSEA, NCDs-VN và VRN nhấn mạnh.

Theo kịch bản chọn trong dự thảo QHĐ VIII, với cơ cấu nguồn điện đề xuất thì tổng lượng phát thải các khí ô nhiễm tăng liên tục từ 9,5 nghìn tấn vào năm 2020 tới trên 42 nghìn tấn năm 2035 (tăng khoảng 4 lần). Lượng phát thải này tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm không khí, tác động đến môi trường sinh thái và sức khỏe cộng đồng. Lượng phát thải này được xác định chủ yếu từ các nhà máy nhiệt điện than có trong quy hoạch và đã được tính toán thành chi phí. So sánh từng nguồn nhiên liệu riêng biệt cho thấy chi phí thiệt hại liên quan đến than là cao hơn cả và có tốc độ tăng nhanh chóng theo tốc độ tăng của nguồn điện này.

Ngoài ra, dự thảo cũng chỉ rõ phát tán bụi gây ô nhiễm không chỉ riêng tại địa phương có nhà máy mà có tính phát tán theo vùng (ví dụ như việc Hà Nội hứng chịu bụi từ các nhà máy tại khu vực Đông Bắc Bộ). Nghiên cứu nêu trên của Trung tâm CREA cũng chỉ ra rằng các địa phương có nhà máy chỉ chịu ảnh hưởng khoảng 7%, khoảng 93% tác động của những nhà máy này rơi vào các tỉnh/thành lân cận trên cả nước. Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đồng Nai, và Bình Dương là những địa phương bị ảnh hưởng lớn nhất.

Ở những tỉnh có nhiệt điện than như (Bình Thuận, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải Dương…) do ô nhiễm môi trường khiến cho nhân dân khiếu kiện, biểu tình kéo dài, từ đó xuất hiện mâu thuẫn nội bộ.

Cần chú trọng và đẩy mạnh phát triển cho năng lượng tái tạo

Theo VSEA, NCDs-VN và VRN, hiện năng lượng tái tạo chưa được chú trọng phát triển trong 10 năm tới và cũng chưa thể hiện được sự đột phá.

Cụ thể, tổng công suất năng lượng tái tạo (điện mặt trời và điện gió) được huy động vào cơ cấu nguồn rất thấp so với tiềm năng: chỉ khoảng 4-5% vào năm 2030, và 13-16% vào năm 2045.

Một số loại hình năng lượng tái tạo có lợi thế về giá thành ngày càng giảm và giải pháp đột phá không được huy động trong 10 năm tới, cụ thể: Điện mặt trời: phát triển rất ít, chỉ có khoảng 2 GW điện mặt trời được đưa vào vận hành; Điện mặt trời kết hợp với nông nghiệp: không được xem xét và có cơ chế khuyến khích phát triển; Điện gió ngoài khơi: chưa được đưa vào trong giai đoạn này; Thủy điện tích năng và pin tích năng: chưa được đưa vào trong giai đoạn này.

Tổng công suất điện mặt trời và áp mái bổ sung trong giai đoạn 2021-2045.
Tổng công suất điện mặt trời và áp mái bổ sung trong giai đoạn 2021-2045. 

VSEA, NCDs-VN và VRN cho rằng, hiện chưa có phương án huy động vốn cụ thể.  Theo các tổ chức này, để thu xếp được khoảng 13 tỷ USD/năm, theo tính toán của chuyên gia khả năng thu xếp của tập đoàn trong nước vào khoảng 3 tỷ USD/năm. 77% còn lại phải huy động từ đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp và hộ dân trong nước.

Trong bối cảnh các chính phủ, chủ đầu tư, tổ chức tài chính và phi tài chính đang thoái vốn khỏi điện than, doanh nghiệp tư nhân trong nước không đủ tiềm lực đầu tư cho các dự án lớn, tính khả thi huy động vốn cho phát triển điện than là rất thấp, hoặc rủi ro cao khi phụ thuộc vào một nguồn cấp vốn duy nhất là Trung Quốc.

“Điều này là chưa phù hợp với tinh thần của Nghị quyết số 50-NQ/TW năm 2019 của Bộ Chính trị. Trong khi đó, điện mặt trời là loại hình phân tán, có thể phát triển ở quy mô nhỏ dễ dàng hơn trong huy động nguồn lực xã hội. Ngoài ra chuyển dịch đầu tư vào năng lượng tái tạo là xu hướng chung trên toàn cầu, Việt Nam cần nắm bắt cơ hội này” - VSEA, NCDs-VN và VRN nhận định.

Bên cạnh đó, 3 tổ chức này cho rằng đề xuất xem xét cấp bảo lãnh chính phủ cho các dự án BOT là không hợp lý. Mặc dù trần nợ công của Việt Nam đã giảm tuy nhiên cân đối vĩ mô của quốc gia còn yếu. Đặc biệt trong tình hình dịch bệnh Covid còn đang tiếp diễn, ưu tiên bảo vệ sức khỏe của nhân dân được đặt lên hàng đầu. Đây là những ưu tiên của chính phủ cần đầu tư nguồn lực thay vì dự phòng ngân sách bảo lãnh cho các dự án điện BOT đang tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Đọc thêm

Tận dụng tối đa cơ hội từ các FTA thế hệ mới, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng bền vững

Hình ảnh minh họa.
(PLVN) - Việt Nam cần tập trung vào các mục tiêu cụ thể để giải quyết hiệu quả các thách thức trọng tâm trong việc thực thi các FTA thế hệ mới, nhằm tận dụng các cơ hội đang có và khắc phục một số hạn chế, qua đó hướng đến thúc đẩy nền kinh tế phục hồi và phát triển theo hướng bền vững.

Hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu tiếp cận và thích ứng với xu hướng chuyển đổi xanh của EU

Bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương phát biểu khai mạc.
(PLVN) -  Xuất khẩu sang thị trường EU có nhiều lợi thế từ việc tận dụng ưu đãi thuế quan theo Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu ( Hiệp định EVFTA ). Tuy nhiên, EU là thị trường khó tính trong việc áp dụng quy định về hàng rào phi thuế quan, đặc biệt là tiêu chuẩn kỹ thuật và phát triển bền vững.

Lưu ý quan trọng cho doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sang Trung Đông

Năm 2024, xuất khẩu thuỷ sản sang Trung Đông dự kiến đạt hơn 360 triệu USD. (Ảnh minh hoạ)
(PLVN) - Trong 11 tháng năm 2024, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Trung Đông đạt 334 triệu USD, chiếm gần 4% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của cả nước. Dự kiến, năm 2024, xuất khẩu sang thị trường này ước đạt hơn 360 triệu USD, nằm trong top 2 thị trường nhập khẩu thuỷ sản có tăng trưởng mạnh nhất sau Trung Quốc.

Gia tăng hiệu quả ứng phó với điều tra phòng vệ thương mại

Thép là mặt hàng có tần suất bị điều tra phòng vệ thương mại lớn nhất. (Ảnh minh họa: MOIT)
(PLVN) - Số lượng các vụ kiện phòng vệ thương mại (PVTM) ở các thị trường lớn đang gia tăng, sẽ tác động rất lớn đến kim ngạch xuất khẩu. Do đó, Bộ Công Thương tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp PVTM để ứng phó với các vụ việc do nước ngoài điều tra và áp dụng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam.

7 vấn đề khuyến nghị các doanh nghiệp, hiệp hội về phòng vệ thương mại trong Hiệp định EVFTA và các FTA thế hệ mới

Bộ Công Thương đang triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng tốt những ưu đãi từ EVFTA cũng như các FTA thế hệ mới.
(PLVN) - Bộ Công Thương đang triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng tốt những ưu đãi từ EVFTA cũng như các FTA thế hệ mới. Đại diện Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương đã đưa ra 7 vấn đề khuyến nghị các doanh nghiệp, hiệp hội xử lý hiệu quả các biện pháp phòng vệ thương mại.

FTA Index: Công cụ giúp Bắc Giang khai phá thị trường tiềm năng và sản phẩm xuất khẩu

Lĩnh vực công nghiệp điện tử tại Bắc Giang rất phát triển.
(PLVN) - Đối với Bắc Giang (BG), FTA Index có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng thương mại và đầu tư. Việc áp dụng các chỉ số FTA Index giúp Bắc Giang hiểu rõ hơn về các cơ hội và thách thức trong việc tận dụng các FTA, từ đó có thể đưa ra các chiến lược phù hợp để phát triển kinh tế, gia tăng xuất khẩu và thu hút đầu tư.

Dự báo lãi suất xu hướng tăng đến cuối năm

Dự báo ngân hàng sẽ “hút” mạnh tiền gửi dịp cuối năm. (Ảnh: TBNH)
(PLVN) -  Với việc các ngân hàng đang đồng loạt tăng lãi suất, lượng tiền gửi vào các ngân hàng cũng tăng đều theo từng tháng, các chuyên gia dự báo trong giai đoạn này, xu hướng dòng tiền đã quay trở lại sản xuất.

Hiện thực hóa chủ trương phát triển công nghiệp bán dẫn

Ảnh minh hoạ.
(PLVN) - Phát triển lĩnh vực bán dẫn là đột phá chiến lược và cũng là nhiệm vụ trọng tâm, là việc cần làm, phải làm và quyết tâm làm bằng được. Đó là chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khi giao nhiệm vụ chung và các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể với các Bộ, ngành, địa phương, tại Phiên họp lần thứ nhất vừa diễn ra của Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn.

Ngành Hải quan phải hướng tới mục tiêu kép

Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng phát biểu chỉ đạo Hội nghị. (Ảnh: H.P)
(PLVN) - Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng, trong thời gian tới, ngành Hải quan phải nỗ lực giải quyết thách thức, vừa đơn giản hóa thủ tục, vừa tăng cường phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại để hướng tới mục tiêu kép: tạo thuận lợi thương mại tối đa vừa đảm bảo an ninh quốc gia vừa chống thất thu ngân sách cao nhất.

Anh gia nhập CPTPP sẽ tạo động lực mới trong quan hệ song phương Việt Nam - Anh

Ngành thủy sản sẽ có được những thuận lợi rất lớn khi cam kết chính thức có hiệu lực.
(PLVN) - Ngày 15/12, Vương quốc Anh đã trở thành quốc gia châu Âu đầu tiên gia nhập Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Việc Vương quốc Anh tham gia Hiệp định CPTPP đánh dấu một chương mới trong quan hệ kinh tế, thương mại giữa các nước trong khu vực nói chung và giữa Việt Nam - Anh nói riêng, mở ra cơ hội tăng cường thương mại, thu hút đầu tư và đẩy mạnh hợp tác trên nhiều lĩnh vực.