27% và 7%

Đó là tỷ lệ hộ nghèo của vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được giảm xuống sau 5 năm triển khai thực hiện chương trình phối hợp liên ngành giữa Sở NN&PTNT - Hội Nông dân tỉnh (giai đoạn 2006-2010)...

Đó là tỷ lệ hộ nghèo của vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được giảm xuống sau 5 năm triển khai thực hiện chương trình phối hợp liên ngành giữa Sở NN&PTNT - Hội Nông dân tỉnh (giai đoạn 2006-2010) với những hoạt động cụ thể như: Vận động nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình phát triển sản xuất, chăn nuôi; tập trung đầu tư, thâm canh các vùng cây công nghiệp dài ngày, mở rộng diện tích, hình thành các vùng sản xuất theo hướng công nghệ cao…
Trồng hoa cúc công nghệ cao.
Trồng hoa cúc công nghệ cao.
Có thể khẳng định, chương trình phối hợp này đã mang lại những kết quả khả quan thông qua những con số biết nói. Ấn tượng đầu tiên đó là, giá trị sản xuất nông nghiệp của tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng khá cao: Từ 7,4% của giai đoạn 2001-2005 lên đến trên 10% của giai đoạn 2006-2010, đến năm 2010 cơ cấu của ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng khoảng 48% tổng giá trị sản xuất toàn tỉnh. Sản xuất nông, lâm nghiệp cũng chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, đời sống nông dân ngày càng được nâng cao. Nhiều mô hình áp dụng công nghệ cao đã đạt được giá trị sản xuất từ 500 đến 1 tỷ đồng/1 ha rau, hoa và từ 150 đến 250 trieu đồng/1 ha đối với cây chè…

Hoạt động phối hợp trong 5 năm qua đã từng bước hình thành những vùng chuyên canh tập trung cây công nghiệp, rau, hoa với quy mô lớn và chất lượng cây trồng ngày càng được đảm bảo cho công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ. Diện tích cây lương thực gieo trồng hàng năm ổn định ở mức 50.000 ha, nhiều giống mới được đưa vào sản xuất từ 31 đến 43 tạ/ha, sản lượng 250.000 tấn. Ngoài những cây trồng chủ lực, truyền thống như cà phê, dâu tằm, cây ăn quả… chiếm diện tích lớn, nông dân các địa phương trên toàn tỉnh cũng đã mạnh dạn chuyển đổi, đưa vào sản xuất nhiều chủng loại cây trồng khác nhau như ca cao, lạc tiên, rau đặc sản… có giá trị kinh tế cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
 
Bên cạnh sản xuất nông nghiệp, lĩnh vực chăn nuôi, thủy sản cũng có những tín hiệu lạc quan khi chất lượng đàn gia súc ngày càng được mở rộng cả về số và chất. Nhiều vật nuôi mới, đa dạng và phong phú như ngựa, hươu, đà điểu, nhím, cá sấu … cũng được phát triển đem lại nguồn thu ổn định cho người dân nông thôn. Về thủy sản, ngoài việc triển khai nuôi trồng thủy sản rộng khắp trên địa bàn tỉnh, nhiều doanh nghiệp, tập thể, cá nhân cũng đã tiến hành nuôi thử nghiệm cá nước lạnh (cá Hồi vân, Tầm nga) có giá trị cao hơn 15-20 lần so với nuôi cá truyền thống, tạo cho Lâm Đồng có thêm một sản phẩm đặc sản có giá trị kinh tế cao.

Sản xuất nông nghiệp trong những năm qua cũng đã chú trọng, tập trung vào ứng dụng tiến bộ KHKT để tăng năng suất, chất lượng. Riêng vùng rau, hoa, dâu tây ở vùng Đà Lạt - Lạc Dương đã có trên 100 mô hình đạt doanh thu từ 150 triệu đồng trở lên, trong đó có trên 50% đạt doanh thu từ 150-480 triệu đồng/ha/năm.

Các tiến bộ kỹ thuật như: Sản xuất rau, hoa trong nhà kính; sử dụng các giống mới lai tạo có năng suất, chất lượng cao thông qua nuôi cấy mô; áp dụng công nghệ bảo quản sau thu hoạch trong nhà lạnh, chế phẩm sinh học … đã được người dân ý thức nhân rộng và mạnh dạn đầu tư. Chính những sự thay đổi đó đã góp phần quan trọng đưa gí trị xuất khẩu nông sản hàng hóa của Lâm Đồng đạt 144 triệu USD, chiếm trên 72% kim ngạch xuất khẩu của toàn tỉnh.

Chương trình phối hợp cũng đã đem lại cho Phong trào nông dân thi đua sản xuất-kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xóa đói giảm nghèo có một diện mạo và sinh khí mới. Tiêu chí thu nhập bình quân (sau khi trừ chi phí) 700.000 đồng người/tháng với vùng I, 500.000 với vùng II và 400.000 với vùng III đã tăng 1,5 lần ở cấp huyện và 2 lần ở cấp tỉnh. Riêng năm 2009, qua bình xét số hộ đạt danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi ở các cấp là trên 46.100 hộ tăng trên 35% so với năm 2005. Các hộ nông dân sản xuất –kinh doanh giỏi cũng đã giúp đỡ hộ nghèo trên 99.000 ngày công lao động, trên 1 triệu cây giống, trên 70.000 con giống để họ nghèo phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống.

Hơn hết, đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn của toàn tỉnh chương trình phối hợp đã có ý nghĩa thiết thực khi đem lại sự thay đổi cho đời sống người dân nông thôn thông qua các chương trình ứng dụng có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi. Con số hộ nghèo từ gần 27% của năm 2005 giảm xuống 7% ở thời điểm hiện tại là một minh chứng và là thành công đáng khích lệ.

Tuấn Linh