Trạng Nguyên Tống Trân: Thuở nhỏ dắt mẹ đi xin ăn, lớn lên trở thành Lưỡng Quốc Trạng

Di tích lịch sử cấp quốc gia Đền thờ Tồng Trân ở Phủ Cừ (Hưng Yên).
Di tích lịch sử cấp quốc gia Đền thờ Tồng Trân ở Phủ Cừ (Hưng Yên).
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Mới lên 3 tuổi, gia cảnh nghèo khó, Tống Trân phải dắt mẹ đi xin ăn khắp nơi. Nhờ chịu khó ham học và nghị lực vươn lên trong cuộc sống, Tống Trân đã thi đỗ Trạng nguyên, nổi danh trong thiên hạ. Khi mất, ông được vua truy phong làm “Thượng đẳng phúc thần”, giao cho dân làng phải hương khói quanh năm.

Cha mất, 3 tuổi dắt mẹ đi ăn xin

Tương truyền vào thời vua Lý Nam Đế ở xã An Đô, tổng Võng Phan, huyện Phù Dung (nay là thôn An Cầu, xã Tống Trân, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên) có một người họ Tống tên gọi Thiệu Công thuộc dòng dõi thi thư, trong gia đình hiếu lễ, ngoài xã hội khoan hòa. Tống Thiệu Công lấy vợ người xã Phù Oanh (cùng huyện) tên là Đào Thị Cuông.

Hai vợ chồng sống rất nhân từ, tu nhân tích đức, làm nhiều việc thiện, những việc làm ấy đã thấu tận trời xanh, nhà trời đã sai thiên sứ xuống đầu thai. Đến tuổi lục tuần bà Cuông mới mang thai hơn 11 tháng, giờ Dần ngày rằm tháng tư năm Bính Ngọ (556) thì hạ sinh một cậu bé khôi ngô tuấn tú. Đặc biệt, trong suốt ba ngày ba đêm trong nhà luôn tỏa ánh hào quang, hai ông bà rất vui mừng bèn đặt tên cho con là Tống Trân. 

Tống Trân lớn nhanh như thổi, lên 3 tuổi đã tinh thông hết Âm luật, tỏ rõ là người có khí chất thông minh, thiên tư sáng suốt, học một biết mười. Gia đình đang sống yên vui, hòa thuận thì chẳng may Tống Thiệu Công lâm trọng bệnh và qua đời. Từ đó, gia cảnh ngày một sa sút, Tống Trân đã phải dắt mẹ đi ăn xin khắp nơi. Một hôm hai mẹ con Tống Trân lang thang hành khất đến đạo Sơn Tây, vào ăn xin ở một gia đình Trưởng Giả giàu có nhưng rất keo kiệt và gian ác. Khi thấy mẹ con Tống Trân hắn liền đuổi đi và không ngớt lời chửi mắng.

Lúc ấy Cúc Hoa con gái Trưởng Giả là một người nhân ái và giàu tình thương người nên đã lén lút đem cơm cho hai mẹ con ăn, không may Trưởng Giả bắt gặp, trong cơn tức giận, hắn liền đuổi nàng đi và từ chối không nhận con. Vì thế, mẹ con Tống Trân đã đưa Cúc Hoa đi cùng. Họ trở về quê cũ làm ăn. Cúc Hoa đảm đang chăm lo cho gia đình, còn Tống Trân ngày đêm rùi mài kinh sử chờ đến kỳ thi.

Năm Tống Trân lên 7 tuổi vua Lý Nam Đế (544-548) mở khoa thi chọn nhân tài, ngày 29 tháng 9, Tống Trân vào kinh ứng thí, cả ba kỳ thi đều đỗ thủ khoa. Đến ngày mồng 1 tháng 2 đỗ “đệ nhất Giáp Cập đệ nhất danh” tức Trạng Nguyên. Vua khen rằng “Quốc sỹ vô song quốc tài quả nhị” nghĩa là: Kẻ sỹ cả nước chỉ có một, tướng tài không có người thứ hai. Sau đó Vua ban cho cờ biển, 1000 vuông gấm và 10 đĩnh vàng cho về vinh quy bái tổ.

Tượng thờ Lưỡng quốc Trạng nguyên Tống Trân.
 Tượng thờ Lưỡng quốc Trạng nguyên Tống Trân. 

Trở về làng, Tống Trân bái yết tổ tông, thăm hai bên nội ngoại, khao vọng dân làng, sau đó Tống Trân hỏi cưới Cúc Hoa làm vợ. Tống Trân dựng nhà ở làng Phù Oanh (quê ngoại) cho mẹ và vợ ở rồi trở lại kinh thành. Được ba tháng, Vua cử Ngài đi sứ Bắc quốc 10 năm. Vua sứ người nhiều lần thử tài Tống Trân nhưng quan Trạng đều ứng đối trôi chảy, xử thế mưu trí, được Vua Tàu khen là nhân tài thứ nhất trong 18 nước chư hầu và phong làm Lưỡng Quốc Trạng Nguyên (Trạng Nguyên hai nước). Vua Tàu muốn gả con gái cho nhưng chàng từ chối.

Vì thế Tống Trân bị Vua giam vào chùa Linh Long trong 100 ngày, không cho thức ăn, nước uống nội bất xuất, ngoại bất nhập. Trong những ngày bị giam cầm, ông đã phát hiện ra tượng Phật được làm bằng chè lam có thể ăn được. Ngài đã ra lệnh cho quân sĩ ăn tượng phật, uống nước cúng. Sau 100 ngày vua thấy trạng và quân sĩ vẫn béo tốt khỏe mạnh Vua Tàu rất phục tài trí của ông và phong làm “Phụ quốc Thượng tể Đẩu Nam Tống Đại vương”.

Sống hạnh phúc bên hai người vợ

 Trong mười năm đi sứ nước người, tuy không có tin tức gì của Tống Trân nhưng Cúc Hoa vẫn một lòng hiếu thuận và chăm sóc mẹ chồng chu đáo. Nàng vẫn ngày đêm mong ngóng tin chồng, giữ chọn tình thủy chung son sắc. Nhưng cha nàng đã bắt nàng lấy con nhà giàu. Hay tin, Tống Trân trở về và giả dạng người hành khất để dò la tình ý, biết Cúc Hoa vẫn một lòng chờ đợi mình.

Chàng khen Cúc Hoa thực là người hiếu thuận, thủy chung. Sau đó, Tống Trân làm rõ bộ mặt xấu xa của Trưởng giả và đón mẹ và vợ về quê đoàn tụ. Nghe chuyện về lòng hiếu thảo và thủy chung của Cúc Hoa, nhà vua cảm động và phong nàng là “Quận phu nhân”.

Sau khi Tống Trân về nước, Công chúa nước Tàu ngày đêm thương nhớ bèn xin vua cha cho sang đất Việt tìm Tống Trân. Vì thương con nên vua Tàu đã ưng thuận và phái đoàn tùy tùng theo bảo vệ nàng. Đoàn người theo đường biển xuống phương Nam nhưng trên đường đi chẳng may gặp bão lớn, công chúa bị đánh dạt vào bờ. Sau nhiều ngày lưu lạc trong rừng, tình cờ một hôm nàng gặp được Tống Trân cũng đi săn trong rừng đó.

Tống Trân đưa nàng về nhà và kể lại toàn bộ câu chuyện cho Cúc Hoa nghe. Cảm động trước tình cảm chân thành mà nàng Công chúa Bắc quốc đã giành cho Tống Trân nên Cúc Hoa vui lòng giữ nàng ở lại. Với tấm lòng bao dung độ lượng, nàng đã đồng ý để Tống Trân lấy Công chúa Bắc quốc làm vợ thứ hai. Từ đó, ba người sống hòa thuận hạnh phúc.

Về sau, Tống Trân còn ra làm quan “Phụ chính đại thần” được hơn 10 năm, đến khi ngoài 60 tuổi ông mới dâng biểu cáo quan về quê. Tuy tuổi già sức yếu nhưng ông vẫn mở lớp dạy học cho con em các nhà nghèo trong làng. Còn nàng Cúc Hoa không có con, lại mắc chứng bệnh đau bụng vào ngày mồng 3 tháng 3 thì qua đời.

Năm năm sau, Tống Trân mắc bệnh và mất ngày mồng 5 tháng 5 năm Tân Hợi (621). Nhận được tin ông mất, triều đình đã cho sứ thần mang sắc chỉ và vàng bạc về địa phương cùng với nhân dân xây dựng đền để tôn thờ Ngài. Triều đình phong cho ông là “Thưởng đẳng tối linh phụ quốc Tống Trân đại vương”. Về sau ông được truy phong làm “Thượng đẳng phúc thần”. Triều đình sắc chỉ cho nhân dân địa phương hương khói lâu dài.

Để tưởng nhớ công ơn của Trạng Nguyên Tống Trân, ngài được lập đền thờ ngay sau khi mất và được nhân dân thờ phụng. Đền tọa lạc trên một khu đất cao, đẹp thuộc địa phận thôn An Cầu, xã Tống Trân. Ngôi đền nằm tách biệt với khu dân cư trên khuôn viên rộng khoảng 5 mẫu Bắc Bộ. Đền còn là cơ sở cách mạng những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Năm 1950 ngôi đền đã bị phá hủy hoàn toàn, qua nhiều lần trùng tu tôn tạo đến năm 1998 đền Tống Trân được trùng tu toàn bộ.

Câu chuyện cảm động về nghĩa tình vợ chồng Tống Trân – Cúc Hoa đã được chuyển thể thành nhiều loại hình nghệ thuật như phim, đặc biệt là chèo. Mỗi dịp địa phương lễ hội bà con dân Tống Trân lại đem tác phẩm này đi diễn khắp các lễ hội xa gần cho mọi người cùng thưởng thức. Câu chuyện về sự thủy chung, hiếu nghĩa của Tống Trân và nàng Cúc Hoa nhắc nhở chúng ta về chữ tình trong cuộc sống. Hằng trăm năm sau, hậu thế vẫn nhắc đến như một thiên tình sử bất hủ của dân gian khiến bao thế hệ cảm động. 

Ảnh Tống Trân – Cúc Hoa

Đọc thêm

Giải mã tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, Ninh Bình là công trình cấp quốc gia.
(PLVN) - Không chỉ là thần Núi, với lý lịch con thứ 17 của Lạc Long Quân, Lạc tướng Vũ Lâm đời Hùng Vương thứ Nhất, việc thờ cúng Cao Sơn Đại vương tại Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ly kỳ chuyện đại hồng chung cứu chúa ở ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang

Chùa Linh Thứu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang.
(PLVN) - Khởi nguyên là ngôi chùa mục đồng giữa khu rừng hoang, Sắc tứ Linh Thứu ngày nay được xem là ngôi chùa cổ nhất đất Tiền Giang. Cổ tự 3 lần được sắc tứ này nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ về chiếc đại hồng chung năm xưa từng cứu chúa Nguyễn Ánh thoát nạn khi còn long đong bôn tẩu phương Nam.

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 7): Vì sao vua Hùng lại mang tên Cao Sơn?

Vua Hùng được nhân dân suy tôn là Đột Ngột Cao Sơn.
(PLVN) - Cao Sơn (núi cao) là danh hiệu mang tính biểu tượng của thần Núi, vị thần trong tín ngưỡng dân gian nguyên thủy. Không phải là thần Núi nhưng hàng nghìn năm qua, Hùng Vương thứ Nhất được nhân dân thờ cúng với thụy hiệu Đột Ngột Cao Sơn. Vì sao vua Hùng lại có danh hiệu này?

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 6): Khám phá tín ngưỡng thờ thần Huyền Vũ

Núi Cánh Diều tương truyền là nơi thần Thiên Tôn cắm gươm hóa.
(PLVN) - Trong bách thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc có nhiều vị thần của Đạo giáo. Qua thời gian, từ một thánh thú có biểu tượng rùa - rắn, Huyền Vũ trở thành một vị thần của tín ngưỡng Trung Quốc, rồi thành thần tiên trong Đạo giáo và thành thần của người Việt. Đến nay, những dấu vết, biểu hiện của Đạo giáo có thể tìm thấy trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 7): Tuệ Trung Thượng Sĩ luận về chuyện sống chết

Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
(PLVN) - Không xuất gia đầu Phật, sống cùng thế tục, nhưng tinh thần thiền học khai phóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm thay đổi nhiều dòng thiền. Trong đó, đối với ngài chuyện sống chết luôn xem nhẹ, bởi chỉ có nhận biết được vòng xoay luân hồi của cuộc đời thì người tu hành mới không vướng bận, mới chuyên tâm tu tập chánh pháp.

Zèng - “báu vật” của người Tà Ôi

Zèng được sử dụng làm của hồi môn trong đám cưới của dân tộc Tà Ôi.
(PLVN) - Việc bảo tồn và phát triển nghề dệt Zèng truyền thống không chỉ giữ gìn biểu tượng văn hóa lâu đời của bà con dân tộc Tà Ôi, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống cho bà con.

Cúng mặn hay cúng chay?

Một mâm cúng chay.
(PLVN) - Cúng mặn hay cúng chay là vấn đề nhiều người dân băn khoăn khi thành kính dâng cỗ cúng cha mẹ, gia tiên. Người Việt chúng ta thường hay nói “trần sao âm vậy”. Nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu thấu đáo câu nói này?

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ
(PLVN) - Thiền sư Không Lộ là một hiện tượng thi ca độc đáo trong dòng thơ thiền Việt Nam. Bài thơ “Ngư nhàn” – “Cái nhàn của ngư ông” được giới chuyên môn đánh giá là sự cất cánh của một tâm hồn thi sĩ. Bài thơ tràn ngập ý vị thiền, qua cái nhìn độc đáo của một nhà sư biết sống tùy duyên, luôn mở lòng, chan hòa với cuộc đời.

Lay lắt nghề thêu tay truyền thống Bình Lăng

Những người thợ của làng nghề Bình Lăng hiện tại chủ yếu là trung tuổi.
(PLVN) - Làng Bình Lăng (xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội) xưa nay được biết đến là làng thêu tay nổi tiếng đất Việt. Sau một thời gian dài phát triển thịnh vượng, giờ đây, bởi thiếu nguồn nhân lực trẻ, thu nhập thấp… thêu tay truyền thống Bình Lăng rơi vào cảnh “thoi thóp”.