Những ai còn giữ gìn nghề thêu long bào của dân tộc Việt?

Nghệ nhân Lê Văn Kinh.
Nghệ nhân Lê Văn Kinh.
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Khắp vùng đất Thường Tín (Hà Nội) xưa kia nổi tiếng với nghề thêu, đặc biệt là thêu long bào, lọng phục vụ cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Những người nghệ nhân thêu từ đây ra đi cũng đã làm rạng danh nghề thêu của cha ông khắp mọi miền Tổ quốc. 

Đứng trước những thay đổi mạnh mẽ của xã hội, làng thêu cổ truyền Đông Cứu, hay Nghệ nhân ưu tú Lê Văn Kinh xứ Huế... vẫn tìm mọi cách gìn giữ tinh hoa của dân tộc.

Ngôi làng duy nhất thêu long bào hơn 300 năm tuổi ở Hà Nội

Làng Đông Cứu, xã Vĩnh Tiến, huyện Thường Tín, nằm bên bờ hữu ngạn của dòng Nhuệ Giang, mang một vẻ đẹp thanh bình và êm đềm như bao làng quê khác của đất Việt. Làng Đông Cứu xưa kia cũng thuộc vùng “ngũ xã” một thời nổi tiếng cùng với các làng nghề thêu truyền thống khác như Đông Gia, Bình Lăng, Quất Động. 

Ngày 12/2/2017, tại thôn Đông Cứu, Đảng ủy, HĐND - UBND xã Dũng Tiến đã tổ chức lễ đón nhận Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia nghề thêu truyền thống thôn Đông Cứu. Theo bản sắc phong, làng thêu có từ thời Vua Lê Cảnh Hưng (1746). Thần tích của làng và những bản sắc phong của các triều vua Việt Nam ghi lại, làng thờ ông Lê Công Hành, vị Tiến sĩ thời Vua Lê Thần Tông (1637) làm tổ nghề thêu.

Ngược dòng lịch sử, tương truyền, trước thế kỷ XVIII, người Việt đã biết nghề thêu và làm lọng từ lâu. Sử cũ từng ghi vào thời Trần, vua quan quen dùng đồ thêu và lọng. Năm 1289, vua Trần đã gửi tặng vua Nguyên một đệm vóc đỏ thêu chỉ vàng, một tấm thảm gấm viền nhiễu. 

Những hoa văn, kỹ thuật thêu trên hoàng bào phải tuân theo một nguyên tắc nhất định.
Những hoa văn, kỹ thuật thêu trên hoàng bào phải tuân theo một nguyên tắc nhất định.  

Tháng Giêng năm Quý Tỵ (1293), Trần Phu trong đoàn sứ nhà Nguyên sang Đại Việt có nhận xét: “Về phẩm hàm của các quan Đại Việt, ai cao ai thấp cứ nhìn vào lọng mà phân biệt. Hễ là khanh tướng thì đi ba cây lọng xanh, bậc thấp hơn thì đi hai lọng, rồi một lọng. Còn như lọng tía thì chỉ có những người trong hoàng tộc mới được dùng”. 

Tuy vậy, nghề thêu ở Đại Việt trước thế kỷ XVIII còn đơn sơ, quanh quẩn với những màu chỉ ngũ sắc và chỉ kim tuyến, làm những mặt hàng phục vụ cho vua, quan, cho nhà chùa (thêu mũ, mãng, triều phục, nghi môn, cờ phướn…). Trong ngôi mộ cổ đào được ở thôn Vân Cát, tỉnh Nam Hà (tỉnh Nam Định ngày nay) có niên đại khoảng thế kỷ XVIII, người ta thấy bên cạnh cái quạt, có một túi trầu bằng gấm thêu kim tuyến, một túi đựng thuốc lào cũng bằng gấm thêu kim tuyến. 

Đến thời Lê Công Hành (1606-1661) là một quan lại thời Hậu Lê(Lê Trung Hưng) ông được cho là đã dạy người làng Quất Động những kỹ thuật thêu và làm lọng tân tiến hơn, loại long mà ông đã tiếp thu được trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc. Từ đó, nghề thêu và làm lọng phát triển mạnh mẽ, lan dần ra nhiều làng nghề trên khắp cả nước trong đó có làng Đông Cứu. 

Làng Đông Cứu trước đây là nơi chuyên chế tác các vật phẩm phuc vụ cho các bậc vua chúa và quan quân. Đây là nơi duy nhất tại miền Bắc được xem là chuyên về lĩnh vực này, dù có một số làng thủ công khác như Quất Động, nhưng do không chuyên nên không thể so sánh chất lượng với Đông Cứu. Số lượng nghệ nhân theo thời gian cũng giảm dần, hiện nay tại Đông Cứu chỉ còn khoảng hơn 50 họ còn lưu giữ nghề của cha ông.

 

Theo nghệ nhân Vũ Văn Giỏi (SN 1974, làng Đông Cứu), từ xưa tới nay các nghệ nhân trong làng thường chỉ dạy cho các thế hệ sau bằng cách truyền miệng chứ không thông qua bất ứ một trường lớp cụ thể. Đến nay, tuy đã trải qua hàng trăm năm lịch sử, Đông Cứu vẫn là ngôi làng duy nhất trên đất Bắc còn giữ được lối thêu cổ, giữ được nghề phục dựng long bào, áo mão cho vua chúa, quan lại, quý tộc trong triều đình xưa.

Nghệ nhân Vũ Văn Giỏ chia sẻ: “Nghề thêu Đông Cứu có nhiều kỹ thuật đặc trưng, dễ phân biệt với các địa phương khác như vừa thêu vừa phải nhồi đặc chỉ, vừa thêu xoắn lại vừa phải bắt nét quanh kim tuyến sao cho mềm mại. Các kỹ thuật này tạo ra chênh lề, ghệch độn hết sức độc đáo mà nghệ nhân thêu gọi đó là ngôn ngữ thêu. Các nghệ nhân Đông Cứu kết hợp nhịp nhàng các kỹ thuật này với nhau tạo thành những hoa văn tinh xảo mà chỉ có những người có tay nghề, trình độ cao trong làng mới có thể thực hiện được”.

Đối với kỹ thuật thêu, phối màu là một điều quan trọng tạo nên bức thêu đẹp, khẳng định được tay nghề người thợ, những tay thợ giỏi, trên sản phẩm thêu bao giờ cũng phải đảm bảo nghiêm ngặt chân mũi chỉ đều đặn, cánh chỉ như quyện lấy nhau, đường thêu mềm mại.

Nghệ nhân Vũ Văn Giỏ và chiếc áo hoàng bào đã phục dựng
 Nghệ nhân Vũ Văn Giỏ và chiếc áo hoàng bào đã phục dựng 

Với những nghệ nhân như ông Vũ Văn Giỏ, ngôn ngữ riêng của nghề thêu cổ truyền nằm ở chính những hình rồng phượng, vân mây nẩy trăng, hoa lá uốn lượn... Những họa tiết này được sắp xếp bố cục cân xứng trên tà áo, vừa thể hiện được sự lộng lẫy, đồng thời qua đó thể hiện thứ bậc, giai cấp trong xã hội thời bấy giờ. Dưới bàn tay khéo léo của các nghệ nhân Đông Cứu, các đường viền chỉ trở nên mềm mại, uốn lượn nhẹ nhàng, khác hẳn với các sản phẩm thêu thủ công ở địa phương khác.

Nghề thêu Đông Cứu đòi hỏi sự tỉ mỉ không chỉ ở lúc thêu mà trước đó các công đoạn như chọn chỉ tơ, chọn sợi kim tuyến, vẽ màu, sáng tạo hình ảnh, in ấn lên vải cũng được những người thợ hết sức coi trọng. 

Xưa kia, thợ thêu chỉ làm các loại nghi môn, câu đối, trướng và các loại khăn chầu, áo ngự… Kỹ thuật thêu cũng đơn giản, màu sắc chưa thật phong phú như ngày nay. Mãi đến đầu thế kỷ XX, nghề thêu mới tiến thêm một bước do có nguyên vật liệu nhập ngoại như các loại chỉ và màu công nghiệp của phương Tây.

Truyền nhân của người thêu long bào cho vua Khải Định

Nghệ nhân ưu tú quốc gia Lê Văn Kinh (SN 1931) trú đường Phan Đăng Lưu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế, là con trai và là truyền nhân của cụ Lê Văn Hỡi – người thêu long bào cho vua Khải Định. Nói về nghề thêu của gia đình, ông Kinh chia sẻ, nghề thêu truyền thống của gia đình ông có nguồn gốc từ huyện Thường Tín, TP Hà Nội. 

Ông là cháu nội của cụ Lê Chí Thành, nguyên quán ở Quốc Động, Thường Tín, Hà Tây. Cụ Lê Chí Thành là một thợ thêu nổi tiếng và được triều Nguyễn triệu về kinh đô Phú Xuân (Kinh đô Huế) trong một cuộc trưng tập thợ giỏi các ngành nghề khắp đất nước. Cha ông là người từng được Tôn Nhơn Phủ của triều đình nhà Nguyễn phong tặng Hàn Lâm viện, vì đã có công thêu bức chân dung của vua Thành Thái, thêu hoàng bào cho vua Khải Định. 

Cụ Lê Văn Hỡi cũng đã có nhiều tác phẩm tranh thêu khác được dùng trong các gian chính điện của hoàng cung, hoặc phủ trên những vật báu gia bảo của Hoàng triều. Nghệ nhân Lê Văn Kinh cũng tiếp nối nghề truyền thống của gia đình, tạo nên một gia tộc có ba đời làm nghề thêu và vang danh một thuở.

Bản vẽ mẫu long bào cho vua Khải Định do thân sinh của ông Lê Văn Kinh phác thảo.
 Bản vẽ mẫu long bào cho vua Khải Định do thân sinh của ông Lê Văn Kinh phác thảo. 

Kể về việc cha mình từng là người thêu long bào cho vua Khải Định, ông Kinh không khỏi tự hào. Ông Kinh nhớ lại, để chuẩn bị cho lễ mừng vua Khải Định bước sang tuổi 40 - Tứ tuần đại khánh, vua đã cho người đi tìm mua loại vải tốt nhất về để may long bào. Đồng thời, nhà vua cũng cho tuyển chọn những người thợ thêu giỏi nhất kinh thành để giao trọng trách. May mắn cụ Lê Văn Hỡi là một trong hai người thợ giỏi nhất lúc bấy giờ được lựa chọn.

Khi đó, việc một người thợ được giao trọng trách thêu long bào cho vua là một vinh dự rất lớn. Tuy nhiên, điều này cũng đòi hỏi người thợ phải thực sự tài năng, ngoài yêu cầu về kỹ thuật thì họ cũng phải là người có hiểu biết và hết sức cẩn thận. Bởi việc may hoàng bào cho nhà vua chỉ cần một sai sót nhở là có thể bị trách phạt rất nặng, thậm chí là mất mạng. 

“Ngày đó, hai người thợ thêu mỗi người được chia ra mỗi phần việc, làm việc bất kể ngày đêm trong suốt 8 tháng dài. Khi long bào hoàn thành được các quan trầm trồ khen ngợi, nhưng nhà vua xem qua lại thấy họa tiết chân rồng bị thêu che khuất mất một chiếc móng. Lỗi này là rất nặng, nhà vua nổi trận lôi đình đòi xử phạt thật nặng hai người thợ thêu.

Một mảnh hoàng bào mà nghệ nhân Lê Văn Hỡi đã thêu.
Một mảnh hoàng bào mà nghệ nhân Lê Văn Hỡi đã thêu.  

May là sau đó xét thấy phần lỗi này là của người kia chứ không phải của cha tôi nên vua mới tha về, bắt sửa lại. Mất gần một tuần lễ sau đó tháo ra thêu lại, long bào cũng hoàn thiện và được vua khen ngợi. Tiếng tăm nghề thêu của gia đình cũng được nhiều người biết đến từ đó”, ông Kinh kể lại.

Gia đình ông Kinh giờ đây vẫn lưu giữ một mảnh vải thừa được cắt ra từ tấm long bào của vua Khải Định. Kích thước miếng vải chưa đến 40cm2, đã bị ố vàng theo năm tháng, nhưng đối với gia đình ông Kinh đây là một kỷ vật vô cùng quý giá. Bởi ở mảnh vải này chứa đựng cả niềm vinh dự và tự hào về nghề thêu của gia đình.

Nói về bản thân mình, Nghệ nhân ưu tú Lê Văn Kinh cho biết, từ nhỏ lúc rảnh rỗi vẫn thường theo chân cha vào chơi trong xưởng. Ngày đó, cậu bé Lê Kinh say mê xem những người thợ lành nghề xâu kim, xỏ chỉ. Đến năm 10 tuổi, ông đã tự mày mò thêu được bức tranh Tùng hạc. Năm 1956, sau khi cha mất, lo nghề thêu của gia đình bị thất truyền, ông đã quyết định bỏ ngang việc theo học luật khoa - một công việc vừa danh giá, vừa kiếm ra tiền lúc đó để về quản lý cửa hàng, gắn bó với nghề thêu từ đó cho đến bây giờ.

 

Đam mê và gắn bó với nghề thêu tay truyền thống, ông Kinh cũng là một trong những người nắm giữ nhiều kỷ lục quốc gia về tranh thêu hiện nay như: Bản kinh “Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh” thêu tay bằng chỉ kim tuyến đầu tiên tại Việt Nam; Nghệ nhân thêu tay truyền thống thơ chủ tịch Hồ Chí Minh thành tranh trang trí bằng chỉ tơ tằm Việt Nam đầu tiên; Nghệ nhân thêu tay bài thơ “Cáo tật thị chúng” bằng nhiều ngôn ngữ nhất...

Trong số trên phải kể đến bộ tranh thêu bài thơ “Cáo tật thị chúng” bằng 20 thứ tiếng. Để tạo được nét riêng, mỗi bức tranh được ông thể hiện bằng một kiểu chữ, một chỉ màu khác nhau dựa vào quốc kỳ mỗi quốc gia. Phải mất 8 năm từ lúc lên ý tưởng đến thực hiện, bộ tranh mới được hoàn thành. Nhiều bức trong số này được du khách tìm đến hỏi mua với giá rất cao.

Quyết giữ nghề của cha ông

Nghệ nhân Vũ Văn Giỏ từng phải mất 5 năm mới thành công trong việc phục chế một chiếc áo long bào. Để có được kết quả đó, ngay từ năm 1993 đến năm 1998, anh Vũ Văn Giỏ đã phải tự nghiên cứu, thông qua các tư liệu lịch sử thu thập được từ các nhà sử học, nhà nghiên cứu, sưu tầm trang phục cung đình thực hành nhiều lần việc thêu một chiếc áo long bào. 

Theo anh, nghệ thuật thêu nói chung, người nghệ nhân có thể tự do thể hiện sự sáng tạo của mình trên những tấm vải, nhưng đối với thêu Cung đình thì bắt buộc phải theo lề lối khác biệt hẳn với cách thêu thông thường.

Điển hình như vải sử dụng cho hoàng bào phải hoàn toàn bằng tơ tằm. Để có thể hoàn thiện được những bộ long bào phục chế, nhiều xưởng thêu trong làng Đông Cứu phải cất công đi đặt từng mét vải ở những làng nghề có uy tín như Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội), Nha Xá (Duy Tiên, Hà Nam) …

Mỗi một trang phục lại phải dùng một loại chỉ khác nhau, không loại nào giống loại nào. Công đoạn như chọn chỉ tơ, chọn sợi kim tuyến, vẽ màu, sáng tạo hình ảnh, in kiểu lên vải cũng vô cùng cầu kỳ, tỉ mẩn. Tuy là một màu chỉ, một mũi kim nhưng với bàn tay của các nghệ nhân, các đường viền trở nên mềm mại, uốn lượn và nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

Những đường viền mềm mại, uốn lượn nhẹ nhàng, không giống với bất cứ sản phẩm thêu ở nơi nào khác ngoài làng Đông Cứu.
 Những đường viền mềm mại, uốn lượn nhẹ nhàng, không giống với bất cứ sản phẩm thêu ở nơi nào khác ngoài làng Đông Cứu. 

Với trang phục dành cho vua, dù là một ngàn hay chục ngàn mũi chỉ thì tất cả các mũi phải đều nhau tăm tắp về khoảng cách, độ dài… Khi thêu, người thợ phải bắt nét thật nhịp nhàng vào sợi kim tuyến, chưa kể các sợi kim tuyến đều là vàng thật nên công việc bắt nét còn khó khăn hơn nhiều. Hơn nữa, bất kể họa tiết nào, các mũi chỉ đều phải thêu theo một hướng nhất định.

Chọn chỉ trong thêu áo cho vua và hoàng gia cũng phải tuân thủ những quy tắc khắt khe khác. Áo long bào của vua bắt buộc phải chọn chỉ se hai chiều, trong khi đó, áo Hoàng hậu lại chỉ được dùng chỉ se một chiều… Cỡ chỉ cũng được quy định cho từng loại áo.

Đặc biệt, mỗi hoạ tiết thêu trên áo long bào lại có những đòi hỏi về màu sắc riêng, ví như màu lam thể hiện hình ảnh sóng nước trên áo Vua, mỗi mảng lại đòi hỏi những màu lam khác nhau, và trên mỗi mảng đó, bắt buộc phải có 5 sắc độ lam, từ đậm đến nhạt. Mỗi họa tiết, hình thêu đều có ý nghĩa về phong thủy và chúc tụng nhà vua và hoàng gia.

Đối với những đơn đặt hàng lớn, người thợ Đông Cứu đã bỏ nhiều công sức chuẩn bị kỹ lưỡng từ khâu nguyên liệu, màu sắc, lối thêu... Chủ yếu phục vụ cho mục đích trưng bày tại các Bảo tàng, phục vụ lễ hội, tín ngưỡng dân gian, góp phần lưu giữ bản sắc văn hóa dân tộc...

“Chỉ nguyên liệu đã vậy, lối thêu cũng hoàn toàn khác biệt. Mỗi hoa văn, họa tiết có cách thêu khác nhau và đòi hỏi tỉ mỉ từng chi tiết, màu sắc cũng phải uyển chuyển, hài hòa theo ngũ sắc thời xưa, thiên nhiên có màu sắc gì thì trong đó phải có màu sắc đó”, Nghệ nhân Vũ Văn Giỏ cho hay. 

Hiện tại, nghệ nhân Vũ Văn Giỏi đã phục dựng được 30 bộ trang phục long bào thể hiện chuẩn mực về mỹ thuật theo nguyên bản mẫu cổ. Các sản phẩm thêu đã được trưng bày ở một số nước trên thế giới, còn lại một số trang phục cung đình được trưng bày ở bảo tàng Huế. Ngoài những trang phục cung đình, xưởng của gia đình anh Giỏ còn có thêm nhiều sản phẩm thêu khác như trang phục văn hóa lễ hội, văn hóa tâm linh. 

Về phần mình, Nghệ nhân ưu tú Lê Văn Kinh dù đã bước sang cái tuổi xưa nay hiếm nhưng hiện ông Kinh vẫn giành một sự đam mê vô cùng lớn đối với việc nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo và giữ gìn nghề thêu tay truyền thống. Với mong muốn bảo vệ nghề truyền thống đã tồn tại trên đất cố đô, nhiều năm trước ông Kinh đã đi khắp ba tỉnh Bình Trị Thiên truyền nghề thêu cho rất nhiều người. Ít ai biết rằng để làm được điều này, trước đó ông cũng từng phải đấu tranh tư tưởng rất nhiều bởi bí quyết gia truyền thì không thể truyền ra ngoài.

Tuy nhiên, trên hành trình đi tìm hiểu của mình, ông Kinh thấy có quá nhiều người không có việc làm, khó khăn trong cuộc sống vì không có một nghề ổn định. Nhiều người phụ nữ phải làm những công việc nặng nhọc để mưu sinh. Khi đó, ông Kinh đã quyết định thắp hương cáo lỗi và xin phép ông bà tổ tiên cho ông được đi truyền nghề, giúp đỡ mọi người.

Năm 2006, nhiều người vẫn thấy ông lão ngoài 80 vẫn đều đặn đến trường Tiểu học Vĩnh Ninh (TP Huế) dạy nghề miễn phí cho nhiều trẻ em câm điếc. Để truyền được nghề, ông Kinh bỏ thời gian hơn một tháng để học ngôn ngữ câm điếc để lên đứng lớp. Trong mấy chục năm qua, hàng nghìn học trò đã được Nghệ nhân Lê Văn Kinh truyền dạy thành nghề. 

Đọc thêm

Giải mã tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, Ninh Bình là công trình cấp quốc gia.
(PLVN) - Không chỉ là thần Núi, với lý lịch con thứ 17 của Lạc Long Quân, Lạc tướng Vũ Lâm đời Hùng Vương thứ Nhất, việc thờ cúng Cao Sơn Đại vương tại Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ly kỳ chuyện đại hồng chung cứu chúa ở ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang

Chùa Linh Thứu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang.
(PLVN) - Khởi nguyên là ngôi chùa mục đồng giữa khu rừng hoang, Sắc tứ Linh Thứu ngày nay được xem là ngôi chùa cổ nhất đất Tiền Giang. Cổ tự 3 lần được sắc tứ này nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ về chiếc đại hồng chung năm xưa từng cứu chúa Nguyễn Ánh thoát nạn khi còn long đong bôn tẩu phương Nam.

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 7): Vì sao vua Hùng lại mang tên Cao Sơn?

Vua Hùng được nhân dân suy tôn là Đột Ngột Cao Sơn.
(PLVN) - Cao Sơn (núi cao) là danh hiệu mang tính biểu tượng của thần Núi, vị thần trong tín ngưỡng dân gian nguyên thủy. Không phải là thần Núi nhưng hàng nghìn năm qua, Hùng Vương thứ Nhất được nhân dân thờ cúng với thụy hiệu Đột Ngột Cao Sơn. Vì sao vua Hùng lại có danh hiệu này?

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 6): Khám phá tín ngưỡng thờ thần Huyền Vũ

Núi Cánh Diều tương truyền là nơi thần Thiên Tôn cắm gươm hóa.
(PLVN) - Trong bách thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc có nhiều vị thần của Đạo giáo. Qua thời gian, từ một thánh thú có biểu tượng rùa - rắn, Huyền Vũ trở thành một vị thần của tín ngưỡng Trung Quốc, rồi thành thần tiên trong Đạo giáo và thành thần của người Việt. Đến nay, những dấu vết, biểu hiện của Đạo giáo có thể tìm thấy trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 7): Tuệ Trung Thượng Sĩ luận về chuyện sống chết

Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
(PLVN) - Không xuất gia đầu Phật, sống cùng thế tục, nhưng tinh thần thiền học khai phóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm thay đổi nhiều dòng thiền. Trong đó, đối với ngài chuyện sống chết luôn xem nhẹ, bởi chỉ có nhận biết được vòng xoay luân hồi của cuộc đời thì người tu hành mới không vướng bận, mới chuyên tâm tu tập chánh pháp.

Zèng - “báu vật” của người Tà Ôi

Zèng được sử dụng làm của hồi môn trong đám cưới của dân tộc Tà Ôi.
(PLVN) - Việc bảo tồn và phát triển nghề dệt Zèng truyền thống không chỉ giữ gìn biểu tượng văn hóa lâu đời của bà con dân tộc Tà Ôi, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống cho bà con.

Cúng mặn hay cúng chay?

Một mâm cúng chay.
(PLVN) - Cúng mặn hay cúng chay là vấn đề nhiều người dân băn khoăn khi thành kính dâng cỗ cúng cha mẹ, gia tiên. Người Việt chúng ta thường hay nói “trần sao âm vậy”. Nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu thấu đáo câu nói này?

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ
(PLVN) - Thiền sư Không Lộ là một hiện tượng thi ca độc đáo trong dòng thơ thiền Việt Nam. Bài thơ “Ngư nhàn” – “Cái nhàn của ngư ông” được giới chuyên môn đánh giá là sự cất cánh của một tâm hồn thi sĩ. Bài thơ tràn ngập ý vị thiền, qua cái nhìn độc đáo của một nhà sư biết sống tùy duyên, luôn mở lòng, chan hòa với cuộc đời.

Lay lắt nghề thêu tay truyền thống Bình Lăng

Những người thợ của làng nghề Bình Lăng hiện tại chủ yếu là trung tuổi.
(PLVN) - Làng Bình Lăng (xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội) xưa nay được biết đến là làng thêu tay nổi tiếng đất Việt. Sau một thời gian dài phát triển thịnh vượng, giờ đây, bởi thiếu nguồn nhân lực trẻ, thu nhập thấp… thêu tay truyền thống Bình Lăng rơi vào cảnh “thoi thóp”.