Huyền tích đền Mây

Di tích lịch sử đền Mây
Di tích lịch sử đền Mây
(PLVN) - Đền Mây thờ tướng Phạm Bạch Hổ thuộc thôn Đằng Châu, phường Lam Sơn (thành phố Hưng Yên). Tương truyền rằng, xưa kia ở phủ Khoái Châu có một cô gái xinh đẹp tên là Doanh Nương. Trong một giấc ngủ, Doanh Nương mơ thấy Sơn Tinh và Hổ trắng, sau đó hạ sinh Phạm Bạch Hổ. Lớn lên Bạch Hổ trở thành một tướng tài, có công giúp vua giết giặc bằng những chiến công hiển hách… 

Ly kỳ chuyện hạ sinh tướng Bạch Hổ

Vào một ngày cuối thu, chúng tôi đến thăm đền Mây và không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp cổ kính và linh thiêng. Ẩn mình dưới cây đa cổ thụ, đền Mây hiện lên phong cảnh hữu tình, nó không chỉ mang ý nghĩa về mặt tâm linh mà còn mang giá trị lịch sử to lớn, là niềm tự hào của người dân thôn Đằng Châu. Đền Mây thờ tướng quân Phạm Phòng Át (tức Phạm Bạch Hổ), vị tướng tài của nước ta trong thời kỳ đầu của kỷ nguyên độc lập tự chủ (đầu thế kỷ thứ X đến đầu thế kỷ XI). 

Theo lời kể của các cụ cao niên ở nơi đây, tướng Phạm Bạch Hổ được sinh ra trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Tương truyền rằng, xưa kia ở Trang Ngọc Đường, phủ Khoái Châu có một người hiền nữ, tên gọi Doanh Nương. Doanh Nương có sắc đẹp tựa như ngọc, mặt hoa da phấn.

Một hôm Doanh Nương nằm mơ thấy Sơn Tinh và Hổ trắng. Sau đó, Doanh Nương mang thai rồi sinh một người con trai khôi ngôi, tuấn tú, nàng đặt tên là Phạm Bạch Hổ (tự là Phạm Phòng Át).

Cây đa cổ thụ ở đền Mây
 Cây đa cổ thụ ở đền Mây

Bạch Hổ lớn lên có thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ tựa như hổ, thông minh hơn người, văn võ song toàn, mới bảy tuổi đã thông thạo văn chương. Phạm Bạch Hổ từng làm hào trưởng đất Đằng Châu, là tướng tài của Dương Đình Nghệ.

Năm Tân Mão 931, ông giúp chủ tướng đánh đuổi Lý Tiến, thứ sử Giao Châu; đánh bại Trần Báo do Đường Minh Tông cử sang cứu viện, rồi xưng tiết độ sứ. Khi Kiều Công Tiễn, một nha tướng của Dương Đình Nghệ giết chết chủ tướng, đoạt chức rồi cầu cứu quân Nam Hán xâm lược nước ta. Phạm Bạch Hổ đã phối hợp với Ngô Quyền đem quân tiêu diệt Kiều Công Tiễn và đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938). Sau khi lên ngôi, Ngô Quyền làm vua được 6 năm rồi mất. 

Ngô triều suy thoái, đất nước có nguy cơ không tự chủ nổi. Mười hai sứ quân đứng lên, mỗi người hùng cứ một nơi. Phạm Bạch Hổ trấn giữ phủ Khoái Châu, tuần phòng lên tới cửa sông Hát. Sau này, Phạm Bạch Hổ cùng Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thành trọng thần nhà Đinh. Ngày 16/11 năm Nhâm Thân (972), Phạm Bạch Hổ mất tại quê nhà, thọ 62 tuổi. Đinh Tiên Hoàng đã cho nhân dân lập đền thờ, các triều đại đều phong tặng ông là: “Khai thiên hộ quốc tối linh thần”.

Ngôi đền của những huyền tích bí ẩn, linh thiêng 

Trong dân gian còn truyền nhau những câu chuyện kỳ lạ tại đền Mây. Tương truyền rằng, lúc chưa lên ngôi vua Lê Ngọa Triều (tức Lê Long Đĩnh), thường bơi thuyền dạo chơi ở Đằng Châu. Một hôm thuyền đang trên sông bỗng mây kéo đến tối sầm, gió thổi rất mạnh, mưa sắp đổ xuống, Long Đĩnh tìm nơi trú ẩn, thấy trên bờ sông có đền, mới hỏi người làng rằng: “Đền thờ thần gì?”, người làng thưa: “Đây là đền thờ thần thổ địa”. Vương hỏi “có thiêng không?” người dân thưa: “Đây là chỗ dựa của một châu, lễ cầu mưa, cầu tạnh đều rất ứng”.

Vương bèn nói to lên rằng: "Nếu thần thử khiến cho bên này sông tạnh, bên kia sông mưa, thế mới thật là thiêng!”. Nói xong quả nhiên nửa sông bên kia mưa rất to, nửa sông bên này chỉ có gió mát. Long Đĩnh không bị ướt, lấy làm lạ sau mới sai người tu bổ lại đền thờ.

Bia ghi lại tiểu sử tướng Phạm Bạch Hổ và lịch sử đền Mây
  Bia ghi lại tiểu sử tướng Phạm Bạch Hổ và lịch sử đền Mây

Thời vua Lý Thái Tông đi đánh giặc Chiêm Thành lần thứ 2, qua đền Đằng Châu mới dừng nghỉ ngơi và cho người sắm sửa lễ vật mang vào cầu thần phù giúp thắng trận. Đêm đó, thần báo mộng cho vua hãy tiến quân.

Tuy nhiên, lúc đó quân nhà Lý dùng thuyền xuôi phương Nam nhưng gặp gió thổi ngược. Thần liền hóa thành con chim đậu trên cột buồm. Trời đang gió Nam chuyển thành gió Bắc. Đại quân chiến thuyền thuận gió nên tiến rất nhanh đến cửa Tư Dung. Khi đó, quân Chiêm Thành đã bày trận sẵn sàng giáp chiến.

Tình thế bất lợi cho quân nhà Lý vì phải có thời gian lên bờ. Bỗng trên mặt nước xuất hiện từng đàn cá nổi lên tạo thành con đường cho quân lính đổ bộ. Quân Chiêm xông đến, chưa kịp giao tranh thì một cơn giông nổi lên, cát bụi cuốn vào trận địa. Quân Chiêm hoảng hồn, rối loạn, quân Lý nhân thế phá trận đánh bại quân Chiêm Thành. Sau vua Lý Thái Tông đã cho ghi vào điển tích chuyện vua Mây và ban tám chữ: “Điểu tích truyền binh/Ngư đầu hộ độ”.

Độc đáo kiến trúc đền Mây

Trải qua bao cuộc thăng trầm của lịch sử, đền Mây đã được tu sửa nhiều lần, và vẫn mang đậm dấu ấn kiến trúc cổ xưa. Điểm độc đáo của đền Mây là các nét chạm khắc có từ thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Đền gồm nhiều hạng mục công trình như Tam quan, dải vũ và khu thờ chính kết cấu kiểu chữ Tam, gồm: tiền tế, trung từ và hậu cung.

Tiền tế có 3 gian, bên trong là các bức đại tự chạm khảm. Trung từ có kết cấu kiểu vì giá chiêng, với hệ thống cột gỗ lim vững chắc kê trên chân tảng đá lớn hình quả bồng để nâng đỡ mái. Các bộ vì gian bên trang trí họa tiết hoa văn đơn giản, riêng hai bộ vì gian giữa được chạm khắc cầu kỳ hơn. Đầu dư, đầu bẩy, con rường chạm hình đao lửa, hoa lá. Trung từ gồm 5 gian là nơi thờ 4 vị quan văn võ của vua Mây Phạm Bạch Hổ. Hậu cung gồm 3 gian với kết cấu đơn giản.

Bia xác nhận cây đa cổ thụ ở đền Mây
 Bia xác nhận cây đa cổ thụ ở đền Mây

Trong đền hiện còn lưu giữ 27 pho tượng được tạc tạo từ thời Lê. Đặc biệt, đền còn lưu giữ rất nhiều mảng chạm khắc và hiện vật có giá trị về mặt mỹ thuật cũng như giá trị lịch sử văn hóa như bức đại tự khảm tra, 1 lư hương đồng, 02 con vẹt điêu khắc thời Lê, châm thư…

Trước đền Mây, cạnh Miếu Bà là cây đa cổ thụ. Cây đa có từ thời mới lập đền. Qua hàng trăm năm,  cây đa cổ vẫn vươn mình tỏa bóng mát rợp trời, trùm lên cả bến Lảnh, đò Mây. Thế nên dân gian để lại câu: Trăm cảnh nghìn cảnh, không bằng bến Lảnh, đò Mây.

Hàng năm, lễ hội đền Mây thường được tổ chức vào 3 dịp: từ ngày 8-16 tháng Giêng hàng năm là lễ hội tưởng nhớ ngày sinh của tướng quân; từ 12 -18 tháng mười một hàng năm là lễ hội tưởng nhớ ngày mất của ngài; 16-24 tháng 6 âm lịch là lễ hội tưởng nhớ ngày mất của thân phụ ngài.

Ghi nhận những giá trị lịch sử to lớn đó, năm 1992 đền Mây được công nhận là di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật. Cùng với sự phát triển và hội nhập của thành phố Hưng Yên, đền Mây đang được tu bổ, tôn tạo nhằm thu hút khách du lịch thập phương tới vãn cảnh cũng như về thăm đền.

Đọc thêm

Giải mã tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, Ninh Bình là công trình cấp quốc gia.
(PLVN) - Không chỉ là thần Núi, với lý lịch con thứ 17 của Lạc Long Quân, Lạc tướng Vũ Lâm đời Hùng Vương thứ Nhất, việc thờ cúng Cao Sơn Đại vương tại Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ly kỳ chuyện đại hồng chung cứu chúa ở ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang

Chùa Linh Thứu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang.
(PLVN) - Khởi nguyên là ngôi chùa mục đồng giữa khu rừng hoang, Sắc tứ Linh Thứu ngày nay được xem là ngôi chùa cổ nhất đất Tiền Giang. Cổ tự 3 lần được sắc tứ này nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ về chiếc đại hồng chung năm xưa từng cứu chúa Nguyễn Ánh thoát nạn khi còn long đong bôn tẩu phương Nam.

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 7): Vì sao vua Hùng lại mang tên Cao Sơn?

Vua Hùng được nhân dân suy tôn là Đột Ngột Cao Sơn.
(PLVN) - Cao Sơn (núi cao) là danh hiệu mang tính biểu tượng của thần Núi, vị thần trong tín ngưỡng dân gian nguyên thủy. Không phải là thần Núi nhưng hàng nghìn năm qua, Hùng Vương thứ Nhất được nhân dân thờ cúng với thụy hiệu Đột Ngột Cao Sơn. Vì sao vua Hùng lại có danh hiệu này?

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 6): Khám phá tín ngưỡng thờ thần Huyền Vũ

Núi Cánh Diều tương truyền là nơi thần Thiên Tôn cắm gươm hóa.
(PLVN) - Trong bách thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc có nhiều vị thần của Đạo giáo. Qua thời gian, từ một thánh thú có biểu tượng rùa - rắn, Huyền Vũ trở thành một vị thần của tín ngưỡng Trung Quốc, rồi thành thần tiên trong Đạo giáo và thành thần của người Việt. Đến nay, những dấu vết, biểu hiện của Đạo giáo có thể tìm thấy trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 7): Tuệ Trung Thượng Sĩ luận về chuyện sống chết

Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
(PLVN) - Không xuất gia đầu Phật, sống cùng thế tục, nhưng tinh thần thiền học khai phóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm thay đổi nhiều dòng thiền. Trong đó, đối với ngài chuyện sống chết luôn xem nhẹ, bởi chỉ có nhận biết được vòng xoay luân hồi của cuộc đời thì người tu hành mới không vướng bận, mới chuyên tâm tu tập chánh pháp.

Zèng - “báu vật” của người Tà Ôi

Zèng được sử dụng làm của hồi môn trong đám cưới của dân tộc Tà Ôi.
(PLVN) - Việc bảo tồn và phát triển nghề dệt Zèng truyền thống không chỉ giữ gìn biểu tượng văn hóa lâu đời của bà con dân tộc Tà Ôi, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống cho bà con.

Cúng mặn hay cúng chay?

Một mâm cúng chay.
(PLVN) - Cúng mặn hay cúng chay là vấn đề nhiều người dân băn khoăn khi thành kính dâng cỗ cúng cha mẹ, gia tiên. Người Việt chúng ta thường hay nói “trần sao âm vậy”. Nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu thấu đáo câu nói này?

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ
(PLVN) - Thiền sư Không Lộ là một hiện tượng thi ca độc đáo trong dòng thơ thiền Việt Nam. Bài thơ “Ngư nhàn” – “Cái nhàn của ngư ông” được giới chuyên môn đánh giá là sự cất cánh của một tâm hồn thi sĩ. Bài thơ tràn ngập ý vị thiền, qua cái nhìn độc đáo của một nhà sư biết sống tùy duyên, luôn mở lòng, chan hòa với cuộc đời.

Lay lắt nghề thêu tay truyền thống Bình Lăng

Những người thợ của làng nghề Bình Lăng hiện tại chủ yếu là trung tuổi.
(PLVN) - Làng Bình Lăng (xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội) xưa nay được biết đến là làng thêu tay nổi tiếng đất Việt. Sau một thời gian dài phát triển thịnh vượng, giờ đây, bởi thiếu nguồn nhân lực trẻ, thu nhập thấp… thêu tay truyền thống Bình Lăng rơi vào cảnh “thoi thóp”.