Cuộc gặp gỡ giữa Kinh Kim Cương và tư tưởng của Đại thi hào Nguyễn Du (kỳ cuối)

Một bức tranh Kiều của họa sĩ Ngọc Mai.
Một bức tranh Kiều của họa sĩ Ngọc Mai.
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Nguyễn Du đã thực sự thấu cảm, thực sự sống trong đời sống với tâm thế của một vị thiền giả, hành trì Kinh Kim Cương. Phải sống, phải thực chứng và trải nghiệm mới có thể chắt lọc và đồng cảm sâu sắc đến thế, tận cùng đến thế với những nỗi khổ của “ngã”, “nhân”, “chúng sinh” và “thọ giả”.

* Cuộc gặp gỡ giữa Kinh Kim Cương và tư tưởng của Đại thi hào Nguyễn Du (kỳ 2)

* Cuộc gặp gỡ giữa Kinh Kim Cương và tư tưởng của Đại thi hào Nguyễn Du (kỳ 1)

Bản kinh vô tự không phải để nhận thức mà phải biến nhận thức thành cuộc sống. Lời kinh giúp ta nhận thức được chân lý chứ bản thân nó không phải chân lý. Chiếc bè, giúp người vượt qua dòng sông cuộc đời, cũng như chân lý, không phải chỉ để nhận thức mà là để sống, để thể nhập và chứng nghiệm. Qua sông, đến bè cũng nên bỏ lại. Đó là những gì Đức Phật từng dạy. 

Cũng như sư Giác Duyên đợi nàng Kiều trải đủ mọi trầm luân trong vô thường, trong khổ, với những đau đáu phận người. Đến khi duyên lành hội đủ, sư đã đợi sẵn, chuẩn bị một bè lau. Bè lau ấy cũng chính là biểu hiện của nhân duyên hội đủ để cứu vớt cuộc đời đã trải qua đủ mọi bể dâu, trôi lăn trong dòng sinh tử, phú quý vinh hoa từng trải, đắng cay khổ nhục từng qua...

Hình ảnh chia tay của sư và nàng Kiều là một hình ảnh đẹp: "Giác Duyên từ tiết giã nàng/ Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du." 

Nếu đọc giai thoại cha ông, chúng ta sẽ bắt gặp một câu chuyện thật dễ thương về cái “Níp Kim Cương” của các vị tu hành và anh học trò nghèo. Níp ở đây là túi đựng, với người học trò thì níp ấy dùng để đựng kinh thư. Với hành giả tu thiền, níp dùng để đựng kinh. Níp nói chung, dùng để đựng những thứ gọi là tư lương. 

Tư lương tức là lương thực. Theo thiền sư Nhất Hạnh, đối với một người tu thiền,“Kinh Kim Cương là một thứ tư lương mà chúng ta mang theo để có thể thành công trong chuyến đi tìm chính mình; đi tìm chính bản thân ta. Ngày xưa, có những hành giả đi từ núi này sang núi khác, từ tỉnh này sang tỉnh khác tìm đạo. Những hành giả đó mang một đôi giày rất cũ, chiếc áo thì bạc màu. Họ không bằng lòng với sự sống tiện nghi ở trong chùa.

Ngày nào cũng được ăn sáng, ăn trưa và ăn chiều, có phòng riêng, có phòng tắm, có cầu tiêu, có đủ thứ, nhưng họ không bằng lòng với những thứ đó. Họ muốn đi tìm cái gì quan trọng cho đời họ, vì vậy họ trở thành một vị du tăng, vân thủy. Vân thủy là danh từ Phật học, danh từ thiền. Vân là mây, thủy là nước.

Chỉ vì muốn đi tìm cái quan trọng nhất cho nên mình đã trở thành một người vân thủy. Vân thủy là ông thầy tu đi tìm đạo. Cái áo nâu bạc phếch, cái nón lá tả tơi, đôi dép đã cũ mòn, nhưng trong cái túi mà ông mang theo đôi khi lòi ra một mẩu bìa và người ta đọc được: Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh.

Kinh Kim Cương.
 Kinh Kim Cương. 

Nhiều vị vân thủy ngày xưa thường đem theo cuốn Kinh Kim Cương. Kinh Kim Cương là tư lương của họ, đi tới đâu xin ăn chỗ đó và dùng cuốn Kinh Kim Cương làm cái cuốc để đào lên giếng nước thơm trong ở trong trái tim của mình mà đạt tới sự giác ngộ. Ngày xưa có những bậc du tăng như thế, họ tự gọi họ là vân thủy, là mây là nước. Mây nước thì không dừng lại ở bất cứ chỗ nào, không bị trói buộc bởi những tiện nghi hàng ngày. Cũng vì lý do đó mà Kinh Kim Cương có một địa vị rất quan trọng trong truyền thống thiền.” 

Hình ảnh Giác Duyên với cái níp Kim Cương vân du và kết một bè lau để cứu nàng Kiều là một hình ảnh của một hành giả đã sống trong cuộc đời với đầy đủ những trầm luân và giữ một chữ Hiếu trong lắng, tròn đầy: “Như nàng lấy hiếu làm trinh/ Bụi nào cho đục được mình ấy vay”. Vậy nên: "Thiện căn ở tại lòng ta,/ Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”

Chữ “Tâm” này rất quan trọng. Nó được nhắc lại nhiều lần trong Truyện Kiều và các tác phẩm khác của Nguyễn Du. Chúng ta cũng hãy cùng đọc lại lời đạo cô Tam Hợp: Sư rằng: 'Phúc họa đạo trời/ 'Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra."

Và cụ Nguyễn Du cũng nhắc lại chữ Tâm (ý muốn, tấm lòng) ở bài Phân kinh thạch đài: "Nhân liễu thử tâm nhân tự độ,/ Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu." Dịch: "Người tỏ tâm này người tự độ,/ Linh sơn chỉ tại tấm lòng ngươi.

Câu thơ này khiến chúng ta nhớ đến lời của quốc sư Phù Vân nói với vua Trần Thái Tông khi ngài lên núi muốn quyết chí xuất gia học đạo: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng mà hiểu, đó chính là chân Phật.”  

Và lời vua Trần Thái Tông khi đã giác ngộ: “Trẫm nghe bản tánh lắng mầu, chân tâm trong lặng, tròn khuyết đều dứt”, như vậy, bản tính lắng yên, chân tâm trong lặng thì Phật tính hiển lộ. Vấn đề không phải ở nơi xuất gia hay tại gia mà cốt lõi ở việc xử lý tâm, làm sao để trở về với bản tâm thanh tịnh vốn có của mỗi người mới là điều quan trọng nhất, cũng là “trọng yếu tính Kim Cương”.

Như vậy, từ Trần Thái Tông đến tư tưởng của Nguyễn Du, hai nhân cách lớn của dân tộc Việt, xuyên suốt là tư tưởng của một hành giả tu tập thiền và lấy Kinh Kim Cương làm sự nghiệp. Với “mãn cảnh giai không hà hữu tướng, thử tâm thường định bất ly thiền” và sự giác ngộ: “Chung tri vô tự thị chân kinh”, lý đốn ngộ đã rõ. Nhưng hơn thế, chúng ta đã thực sự được thấy sự tiệm tu và thực chứng của Nguyễn Du với ý muốn và tấm lòng của nhân vật trong từng trường đoạn bể dâu của Truyện Kiều. Thấu đáo được như lời của Mộng Liên Đường nhận xét: “Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy...” 

Những dòng thơ cuối cùng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: "“Thiện căn ở tại lòng ta,/ Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài. Lời quê chắp nhặt dông dài,/ Mua vui cũng được một vài trống canh.”

Cụ lại một lần nữa khẳng định về cái gốc rễ của tính thiện, của Phật tính là ở tại nơi lòng người. Bằng cách nói rất mực khiêm cung, Nguyễn Du đã chia sẻ Truyện Kiều mà cụ vừa viết ra là những: “Lời quê chắp nhặt dông dài”.. Lời quê cũng như cách sử dụng chữ Nôm cho Truyện Kiều chính là một tâm thức hướng tới số đông, hướng tới tất cả mọi người chứ không riêng gì giới trí thức trong xã hội. Không những thế, lời quê ấy lại còn được “chắp nhặt” và “dông dài”.

Là thi sĩ tự khiêm cung hay chính là tâm thái vô chấp của một thiền sư? Và kết thúc một tác phẩm vĩ đại với hơn ba ngàn câu thơ, câu nào cũng chứa đựng tài hoa, trăn trở, đau đáu xót xa trước bể dâu và phận người chìm nổi là một sự buông xuống nhẹ nhàng. 

Những sẻ chia từ tấm lòng của một nhân cách lớn với tình thương lớn ấy, với Nguyễn Du, cũng chỉ là để: “Mua vui cũng được một vài trống canh”. Vị thiền sư – thi sĩ ấy, cho đến cuối cuộc đời mình cũng đã ra đi rất an nhiên. Ghi chép trong sách Chính biên Liệt truyện: “Khi Nguyễn Du phải bệnh nặng, ông không chịu uống thuốc. Lúc gần mất, sai người sờ tay chân xem còn nóng hay lạnh. Người nhà nói đã lạnh cả rồi. Ông nói rằng: “Được!”. Nói xong thì mất, không một lời nào dặn dò đến việc sau”.

Nguyễn Du như vậy đã đón nhận cái chết với một tâm thế hoàn toàn sáng suốt, bình thản. Sự an nhiên ấy và con mắt trạch pháp, trông thấu sáu cõi  ấy cố nhiên, chính là con mắt của một hành giả, một thiền sư thể nhập được không tính và áo nghĩa Kinh Kim Cương theo tính truyền thừa.

Đọc thêm

Giải mã tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, Ninh Bình là công trình cấp quốc gia.
(PLVN) - Không chỉ là thần Núi, với lý lịch con thứ 17 của Lạc Long Quân, Lạc tướng Vũ Lâm đời Hùng Vương thứ Nhất, việc thờ cúng Cao Sơn Đại vương tại Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ly kỳ chuyện đại hồng chung cứu chúa ở ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang

Chùa Linh Thứu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang.
(PLVN) - Khởi nguyên là ngôi chùa mục đồng giữa khu rừng hoang, Sắc tứ Linh Thứu ngày nay được xem là ngôi chùa cổ nhất đất Tiền Giang. Cổ tự 3 lần được sắc tứ này nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ về chiếc đại hồng chung năm xưa từng cứu chúa Nguyễn Ánh thoát nạn khi còn long đong bôn tẩu phương Nam.

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 7): Vì sao vua Hùng lại mang tên Cao Sơn?

Vua Hùng được nhân dân suy tôn là Đột Ngột Cao Sơn.
(PLVN) - Cao Sơn (núi cao) là danh hiệu mang tính biểu tượng của thần Núi, vị thần trong tín ngưỡng dân gian nguyên thủy. Không phải là thần Núi nhưng hàng nghìn năm qua, Hùng Vương thứ Nhất được nhân dân thờ cúng với thụy hiệu Đột Ngột Cao Sơn. Vì sao vua Hùng lại có danh hiệu này?

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 6): Khám phá tín ngưỡng thờ thần Huyền Vũ

Núi Cánh Diều tương truyền là nơi thần Thiên Tôn cắm gươm hóa.
(PLVN) - Trong bách thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc có nhiều vị thần của Đạo giáo. Qua thời gian, từ một thánh thú có biểu tượng rùa - rắn, Huyền Vũ trở thành một vị thần của tín ngưỡng Trung Quốc, rồi thành thần tiên trong Đạo giáo và thành thần của người Việt. Đến nay, những dấu vết, biểu hiện của Đạo giáo có thể tìm thấy trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 7): Tuệ Trung Thượng Sĩ luận về chuyện sống chết

Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
(PLVN) - Không xuất gia đầu Phật, sống cùng thế tục, nhưng tinh thần thiền học khai phóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm thay đổi nhiều dòng thiền. Trong đó, đối với ngài chuyện sống chết luôn xem nhẹ, bởi chỉ có nhận biết được vòng xoay luân hồi của cuộc đời thì người tu hành mới không vướng bận, mới chuyên tâm tu tập chánh pháp.

Zèng - “báu vật” của người Tà Ôi

Zèng được sử dụng làm của hồi môn trong đám cưới của dân tộc Tà Ôi.
(PLVN) - Việc bảo tồn và phát triển nghề dệt Zèng truyền thống không chỉ giữ gìn biểu tượng văn hóa lâu đời của bà con dân tộc Tà Ôi, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống cho bà con.

Cúng mặn hay cúng chay?

Một mâm cúng chay.
(PLVN) - Cúng mặn hay cúng chay là vấn đề nhiều người dân băn khoăn khi thành kính dâng cỗ cúng cha mẹ, gia tiên. Người Việt chúng ta thường hay nói “trần sao âm vậy”. Nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu thấu đáo câu nói này?

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ
(PLVN) - Thiền sư Không Lộ là một hiện tượng thi ca độc đáo trong dòng thơ thiền Việt Nam. Bài thơ “Ngư nhàn” – “Cái nhàn của ngư ông” được giới chuyên môn đánh giá là sự cất cánh của một tâm hồn thi sĩ. Bài thơ tràn ngập ý vị thiền, qua cái nhìn độc đáo của một nhà sư biết sống tùy duyên, luôn mở lòng, chan hòa với cuộc đời.

Lay lắt nghề thêu tay truyền thống Bình Lăng

Những người thợ của làng nghề Bình Lăng hiện tại chủ yếu là trung tuổi.
(PLVN) - Làng Bình Lăng (xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội) xưa nay được biết đến là làng thêu tay nổi tiếng đất Việt. Sau một thời gian dài phát triển thịnh vượng, giờ đây, bởi thiếu nguồn nhân lực trẻ, thu nhập thấp… thêu tay truyền thống Bình Lăng rơi vào cảnh “thoi thóp”.