Hiệp hội xe máy, xe đạp Việt Nam cho biết, thống kê sơ bộ từ đầu năm, lượng tiêu thụ xe máy đã giảm mạnh, khoảng 20-30% so với cùng kỳ năm 2005.
Trong 52 đơn vị sản xuất, lắp ráp xe gắn máy, có 45 doanh nghiệp thuần Việt Nam, cả quốc doanh lẫn tư doanh chỉ xuất xưởng được gần 376.000 sản phẩm. Trong đó, 1/3 trong số doanh nghiệp này là có việc làm tương đối, đa số còn lại hoạt động cầm chừng, thậm chí phải đóng cửa.
Buổi tọa đàm Xe máy Việt và vấn đề sở hữu công nghiệp diễn ra ngày 4/10 đã chỉ ra một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là vấn đề thương hiệu và bảo hộ thương hiệu của xe máy Việt Nam.
Theo ông Phạm Bích San, Tổng thư ký Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, có 3 vấn đề cơ bản ảnh hưởng lớn đến việc sản xuất xe máy của các doanh nghiệp Việt Nam: tình trạng giao thông, công nghệ và chính sách.
Đặc biệt, khi phân tích về chính sách, ông San nhấn mạnh chính sách đối với sản xuất xe máy trước đây cũng như ôtô về sau này đã thể hiện sự yếu kém cơ bản trên bình diện lợi ích quốc gia: không đảm bảo được sản phẩm có giá phù hợp với thị trường Việt Nam vào thời điểm cần thiết.
Một trong những bài toán mà doanh nghiệp trong nước phải đối mặt trong thời gian tới, đó là việc từ 1/7/2006, Luật Sở hữu trí tuệ được thi hành, tạo khung pháp lý nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Có nhiều lo ngại về khả năng nhiều doanh nghiệp... bị phạt nặng do vi phạm quyền sở hữu công nghiệp của các hãng xe máy nước ngoài.
Trên thực tế, thời gian qua đã có một số vụ mà cơ quan quản lý thị trường căn cứ vào khiếu kiện vi phạm sở hữu công nghiệp để kiểm tra, tạm giữ xe máy do các doanh nghiệp trong nước sản xuất.
Theo ông Nguyễn Xuân Chuẩn, Chủ tịch Hiệp hội cơ khí Việt Nam, đây là điều đã được dự báo. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn do bị coi là có kiểu dáng nhái các xe của Nhật Bản nên không tiêu thụ được.
Trong khi đó, phía các doanh nghiệp trong nước đang cố gắng đưa ra quan điểm khẳng định vai trò có ý nghĩa kinh tế - quan trọng của các dòng xe máy Made in Vietnam với lợi thế giá thành rẻ (thường chỉ dao động ở mức 4,5-10 triệu VND/chiếc), chất lượng tương đối và quan trọng là luôn là một đối trọng để các loại xe máy nước ngoài đắt tiền phải nghiên cứu về chính sách giá cả, góp phần đem lại lợi ích tốt nhất cho người tiêu dùng. Nhiều doanh nghiệp cho biết các quy định hiện hành chưa đủ cơ sở rõ ràng để khẳng định sự vi phạm sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực xe máy hiện nay.
Đơn cử quy định về "ấn tượng thị giác khác biệt" chưa được giải thích rõ ràng. Hoặc quy định kiểu dáng khác biệt, tổng thể 1 chiếc xe phải có 13 điểm khác biệt và thực tế nhiều doanh nghiệp đã tạo được trên 13 điểm khác biệt này, nhưng chỉ là những thay đổi nhỏ và cơ quan quản lý đã xử lý thiếu thống nhất và cảm tính đối với các trường hợp này.
Theo GS Vũ Tuyên Hoàng, Chủ tịch Liên hiệp các hội khoa học - kỹ thuật Việt Nam, cần phải tính đến một thực tế là không chỉ lĩnh vực xe máy, nhiều lĩnh vực luật đã rõ ràng nhưng cơ quan thực thi làm không đúng đã gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
Theo GS Hoàng, nền công nghiệp xe máy của Việt Nam còn non trẻ, nhu cầu của người dân vẫn là rất lớn, đặc biệt ở vùng nông thôn. Vì vậy, những loại xe do Việt Nam sản xuất với giá cả phải chăng, được cơ quan đăng kiểm cho phép lưu hành thì không có lý gì bị coi là vi phạm, gây thiệt hại cho doanh nghiệp và cho chính người tiêu dùng.
Quan điểm này được ông Đỗ Gia Phan, Phó chủ tịch Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam chứng minh: nhiều năm nay Hội không nhận được khiếu nại nào về kiểu dáng xe.
Theo ông Nguyễn Đức Phú, để tránh được vấn đề nổi cộm về vi phạm quyền sở hữu trí tuệ này và để thay đổi thực trạng yếu kém của ngành công nghiệp xe máy Việt Nam, Hiệp hội xe đạp xe máy cũng như các cơ quan quản lý cần tạo dựng cho xe máy Việt một thương hiệu.
Trong 3 cách tạo dựng thương hiệu cơ bản, ông Phú nghiêng về chủ trường tập trung cho nghiên cứu và sản xuất một loại hình xe máy thích hợp với Việt Nam và các nước trong khu vực để hướng sản phẩm này ra xuất khẩu.
Ngoài ra, theo nhận định của Hội nghị, việc Chính phủ ban hành 3 nghị định 101, 103 và 105/2006/NĐ - CP cuối tháng 9 vừa qua cũng được hy vọng là sẽ tạo ra một quy trình phối hợp, kiến toàn hoạt động của các cơ quan quản lý lĩnh vực sở hữu trí tuệ và thị trường nhằm tạo sự thống nhất giữa Luật và thực thi sở hữu kiểu dáng công nghiệp trong đời sống.
-
(Theo Vneconomy)