Giữa độ xuân 2011, tôi đã tìm tới nhà riêng của bà ở khu cao tầng số 96 phố Định Công, Hà Nội. Bà Mộ La người nhỏ nhắn, dáng đi vẫn nhanh nhẹn, rất mẫn tuệ, nhớ nhiều, cách nói khúc triết, mạch lạc, đúng nghề nhà giáo...Danh gia vọng tộc
Hồ Mộ La quê ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Bà nội Mộ La là Trần Thị Trâm, tục gọi là Bà Lụa, sinh thời là người tích cực tham gia phong trào Cần Vương và Đông Du của cụ Phan Đình Phùng - Phan Bội Châu, được các cụ đặt tên là “Tiểu Trưng”. Mẹ của Mộ La là con gái của Ngô Quảng, lãnh binh của Phan Đình Phùng; còn chị ruột là Hồ Diệc Lan, phu nhân của tướng Lê Thiết Hùng nổi danh một thời. Người cha thân yêu của bà - chí sĩ Hồ Học Lãm là người hết lòng ủng hộ cách mạng Việt
Cha Mộ La từng theo cụ Phan Bội Châu sang Nhật trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục từ năm 1906. Đông Du thất bại, cụ Phan giới thiệu ông Lãm sang Trung Quốc vào học trường Sĩ quan Bảo Định - Hà
Hồ Học Lãm cũng đứng tên đề nghị mở văn phòng đại diện Việt kiều, làm Chủ nhiệm cơ quan Biện sự sứ tại Quế Lâm, Phó chủ nhiệm là ông Phạm Văn Đồng.
Ông Hồ Học Lãm bị suy tim, hen suyễn nặng, mất ngày 12/4/1943, dặn gia đình thay mình, việc gì đoàn thể giao, làm được thì nhận, làm thật tốt để xứng đáng niềm tin của lãnh tụ, cũng là giữ trọn nền nếp gia phong của dòng tộc họ Hồ.
Đời nghệ sỹ gian lao như người lính
Sau khi Hồ Học Lãm mất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử người đón gia đình Hồ Mộ La về Việt
Sau hiệp định Geneve lập lại hòa bình ở miền Bắc, bà vừa là nghệ sĩ đơn ca nổi tiếng bởi bài hát “Em bé Mường La”, lại vừa là phiên dịch cho chuyên gia ở lớp thanh nhạc đầu tiên tại Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị. Mộ La ví: “Đời nghệ sỹ cũng gian lao và khổ luyện chẳng kém gì những người lính”. Có lẽ vì vậy mà bà luôn tìm được sự đồng cảm của những người lính sau mỗi lần đến các đơn vị bộ đội biểu diễn. Họ luôn dành cho bà những tình cảm chân thành và quý mến.
Là diễn viên hát, bà được đánh giá là giọng hát vang, khỏe, lĩnh xướng tốt. Năm 1957, bà theo học lớp hợp xướng dưới sự hướng dẫn của chuyên gia Triều Tiên. Bà cũng là nữ nghệ sĩ hiếm hoi thời ấy sang du học âm nhạc tại Liên Xô (cũ) từ tháng 8/1959. Cùng tham gia khóa học 7 năm ở khoa Thanh nhạc của Nhạc viện Tchaikovsky (
Mộ La nhớ lại: “Khi tôi hát ở Việt
Sau này bà mới hiểu đó chính là phương pháp “âm thanh cộng minh”, hay còn gọi là phương pháp belcanto (giọng hát đẹp) một phương pháp rất mới trong thanh nhạc đã xuất hiện từ khoảng thế kỷ 17 nhưng phải đến giữa thế kỷ 19 mới thật sự phát triển mạnh mẽ.
Tâm huyết với sự nghiệp “trồng người”
Tiếp cận phương pháp thanh nhạc mới của phương Tây, bà tự nhận thấy mình có những điểm yếu không dễ gì trở thành ca sĩ dòng belcanto hàng đầu được, vì vậy bà quyết tâm học để trở thành một nhà sư phạm dạy thanh nhạc theo phương pháp belcanto khi trở về nước.
Tốt nghiệp về nước năm 1966, bà làm công tác tập huấn cho các Đoàn Văn công Quân đội, rồi làm chủ nhiệm Khoa thanh nhạc Trường Nghệ thuật Quân Đội (nay là Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân Đội) từ 1967. Nhận thức được tầm quan trọng của việc giảng dạy thanh nhạc chính quy cho ca sĩ, Hồ Mộ La đã không tham gia biểu diễn nữa, mà chuyên tâm cho việc truyền bá kiến thức thanh nhạc.
Năm 1984, Mộ La chuyển sang làm giảng viên Nhạc viện Hà Nội. Ngoài những buổi dạy chính, bà còn dành một tuần bốn giờ dạy thêm cho học sinh mà không thu tiền, mặc dù hoàn cảnh rất khó khăn; có hai ngoại ngữ, nhưng bà cũng không tìm việc làm thêm để có thu nhập.
Với niềm đam mê và không chịu chùn bước, bà miệt mài, chắt chiu, vượt qua mọi gian khó, đem hết tâm huyết tâm trí và tài năng đào tạo lớp lớp học sinh mới. Bà luôn học hỏi để áp dụng, đưa những phương pháp ca hát khoa học phương Tây vào âm nhạc và ngôn ngữ Việt
Bà cho rằng, để vận dụng phương pháp belcanto vào Việt
Có lẽ đam mê và khát vọng về nền nghệ thuật thanh nhạc của bà còn nhiều lắm khi bà nói với chúng tôi điều này: “So với thế giới đã có hơn bốn thế kỷ thanh nhạc belcanto, Việt
Các cuốn sách dịch của bà với bút danh Hồng Lam như Xêbastian Băc (NXB Văn Hóa - 1981) cùng các cuốn sách viết, biên soạn như “Lịch sử nghệ thuật thanh nhạc phương Tây”, “Phương pháp thanh nhạc Hồ Mộ La” thực sự là những cuốn sách quý giá cho các ca sĩ. Đây là công trình khoa học được các nhà chuyên môn đánh giá rất cao: Có hệ thống, có chiều sâu và rất bổ ích.
Tận tụy với học trò
Khi rèn rũa thanh nhạc cho học trò, bà Mộ La luôn nhẫn nại chỉnh sửa từng câu hát, từng cách mở khẩu hình, nhả chữ nhả thanh. Vì thế, nhiều ca sỹ đã thành danh, đạt nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế vẫn nhớ đến những ngày học tập cùng bà như: Rơ Chăm Pheng - giải nhất cuộc thi hát thính phòng năm 1996; Thu Lan và Hà Thủy - đồng giải ba cuộc thi này, ca sĩ tài năng Xuân Thanh - người đoạt giải thưởng “Người hát dân ca hay nhất” trong cuộc thi âm nhạc quốc tế mang tên Tchaikovsky.
Rất nhiều NSƯT khác cũng trưởng thành dưới sự hướng dẫn dìu dắt của Mộ La như: Tố Uyên, Kim Khánh, Hoàng Hoa, Thu Hằng, Nông Trung Bộ... và đặc biệt là Anh Thơ, một giọng hát đang chinh phục khán giả đương thời.
Nhờ được Mộ La thụ giáo kỹ càng, NSƯT Hà Thủy đã mạnh dạn mang phương pháp thanh nhạc thính phòng áp dụng cho hát nhạc nhẹ trong giảng dạy. Kết quả là đã đào tạo ra những ca sĩ nhạc nhẹ như Hồ Quỳnh Hương, Phương Anh, Ngọc Anh, Mai Trang, Nguyễn Minh Chuyên, Hoàng Lệ Quyên...
Trong cuộc đời 45 năm giảng dạy, kí ức Mộ La vẫn vẹn nguyên kỷ niệm với học trò Rơ Chăm Pheng, người dân tộc Gia Rai. Ngày mới ra học thanh nhạc, Rơ Chăm Pheng không biết đi xe đạp nên được cô giáo La đèo đi học, cũng như đi biểu diễn ở Hà Nội. Một lần đến đoạn Trung Tự, Rơ Chăm Pheng không biết nhảy xe đạp, làm cả xe cả người ngã đánh “uỳnh” một cái xuống lòng đường. Tuy cú ngã đau điếng nhưng 2 thầy trò lại được một phen cười lăn cười bò. Và rồi cô gái người giao liên Tây Nguyên dẫn đường bộ đội vào chiến trường đã được cô giáo Hồ Mộ La dẫn tới chân trời âm nhạc sáng lạn với nhiều giải thưởng cao quý.
Giờ đây đã bước qua tuổi 80, mắt đã mờ, tay đàn đã kém nhưng nhiệt huyết dạy thanh nhạc trong Mộ La vẫn không hề thay đổi. Khi dạy học trò, bà vẫn sôi nổi, cuồng nhiệt như quên cả tuổi tác. Bà tâm sự: “Tôi chỉ làm hết sức mình, cố gắng cống hiến được càng nhiều càng tốt, còn được công nhận hay không thì cũng không sao...”.
Thu Hồng