Cảnh báo bệnh viêm não Nhật Bản ở người lớn

Bệnh nhân viêm não Nhật Bản điều trị tại Khoa Bệnh lây đường hô hấp và hồi sức Truyền nhiễm.
Bệnh nhân viêm não Nhật Bản điều trị tại Khoa Bệnh lây đường hô hấp và hồi sức Truyền nhiễm.
Gần đây, Khoa Bệnh lây đường hô hấp và hồi sức Truyền nhiễm, Bệnh viện trung ương quân đội 108, tiếp nhận nhiều bệnh nhân người lớn, trong đó có các chiến sĩ bộ đội mắc bệnh viêm não Nhật Bản điển hình, với những tổn thương nặng nề về thần kinh-tâm thần, để lại di chứng, tàn phế nghiêm trọng nếu khỏi bệnh.

Đơn cử, ngày 3/9, bệnh nhân Lưu Văn N. (53 tuổi, sống tại quận Long Biên, Hà Nội), vào viện sau 3 ngày sốt cao liên tục 39-40 độ C, rối loạn ý thức, liệt chân trái, tiểu tiện không thể kiểm soát. Sau đó, bệnh nhân nhanh chóng hôn mê, liệt tứ chi, suy hô hấp, trụy tim mạch phải thở máy, dùng thuốc vận mạch duy trì huyết áp.

Kết quả xét nghiệm máu và dịch não tủy cho thấy bệnh nhân bị viêm não Nhật Bản. Hình ảnh cộng hưởng từ cho thấy tổn thương dạng viêm lan tỏa toàn bộ vùng chất xám bán cầu 2 bên. Bệnh nhân sau đó xuất hiện rối loạn thần kinh thực vật nghiêm trọng, tiên lượng nặng, nguy cơ tử vong, gia đình xin cho bệnh nhân ra viện về chăm sóc giai đoạn cuối tại nhà vào ngày thứ 10 của bệnh.

Trước đó, tháng 6-7/2018, khoa Bệnh lây đường hô hấp và hồi sức Truyền nhiễm cũng tiếp nhận 6 bệnh nhân người lớn, trong đó có 3 chiến sĩ đóng quân tại tỉnh Điện Biên được chẩn đoán viêm não Nhật Bản. Tuy cả 6 trường hợp này đều được cứu sống ra viện, nhưng 4 bệnh nhân phải mang di chứng tàn phế: rối loạn ý thức, hôn mê, liệt mềm tứ chi nằm một chỗ, động kinh, thở máy kéo dài hoặc thở qua lỗ mở khí quản.

Theo TS. Vũ Viết Sáng, Khoa Bệnh lây đường hô hấp và hồi sức Truyền nhiễm, Viện Lâm sàng các bệnh truyền nhiễm, Bệnh viện trung ương quân đội 108, mọi lứa tuổi đều có thể mắc bệnh viêm não Nhật Bản, song chủ yếu là trẻ em dưới 15 tuổi. Nhóm nguy cơ cao nhất là trẻ từ 2-6 tuổi, chiếm 75% tổng số trẻ mắc. Người lớn ít mắc bệnh do đa số đã có miễn dịch mắc phải. 

Thời gian ủ bệnh trung bình là 1 tuần (từ 5-14 ngày). Bệnh thường khởi phát đột ngột với biểu hiện sốt cao 39-40 độ, đau đầu, buồn nôn và nôn. Bệnh diễn biến nặng lên rất nhanh. Có trẻ đang khỏe mạnh bỗng nhiên sốt cao, sau đó xuất hiện nôn, cứng gáy, tăng trương lực cơ, co giật, rối loạn ý thức, lờ đờ, lú lẫn rồi hôn mê ngay trong vòng 1-3 ngày đầu.

Giai đoạn toàn phát kéo dài từ ngày 3-4 đến ngày 6-7 của bệnh. Virus xâm nhập vào nhu mô não tuỷ gây huỷ hoại các tế bào thần kinh. Các triệu chứng của giai đoạn khởi phát không thuyên giảm mà tăng dần.

Giai đoạn này diễn ra ngắn, nổi bật là các triệu chứng tổn thương não chung và tổn thương thần kinh khu trú: rối loạn ý thức, lú lẫn, có khi hôn mê sâu, liệt từng phần hoặc toàn bộ tứ chi, động kinh, múa giật, múa vờn, rối loạn cơ tròn, rối loạn thần kinh thực vật như vã nhiều mồ hôi, da lúc đỏ, lúc tái, rối loạn nhịp thở, tăng tiết trong lòng khí quản, mạch nhanh và yếu, huyết áp tụt ảnh hưởng đến các chức năng sống. Bệnh nhân tử vong chủ yếu gặp trong giai đoạn này. Những bệnh nhân vượt qua được thời kỳ này thì tiên lượng tốt hơn.

Giai đoạn lui bệnh bắt đầu từ tuần thứ 2 trở đi. Sốt giảm dần và hết vào khoảng ngày thứ 10 nếu không có bội nhiễm vi khuẩn khác. Bệnh nhân từ hôn mê có thể tỉnh lại dần dần, không còn những cơn co cứng, hết nôn và đau đầu.

Bệnh nhân có thể xuất hiện các biến chứng như: viêm phế quản, viêm phổi, viêm phế quản - phổi do bội nhiễm; viêm đường tiết niệu do thông tiểu hoặc đặt sonde dẫn lưu; loét điểm tỳ đè và viêm tắc tĩnh mạch do nằm lâu và rối loạn dinh dưỡng. 

Di chứng có thể gặp là bại hoặc liệt tay chân, mất ngôn ngữ, múa giật, múa vờn, động kinh, parkison, rối loạn phối hợp vận động, giảm trí nhớ nghiêm trọng, rối loạn tâm thần hoặc hôn mê, rối loạn giao cảm, rối loạn chuyển hoá, nghe kém hoặc điếc... 

Cũng theo TS. Vũ Viết Sáng, hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu bệnh viêm não Nhật Bản. Các điều trị hỗ trợ nhằm duy trì chức năng sống, hạn chế tổn thương não thứ phát, điều chỉnh rối loạn chức năng các cơ quan, dự phòng biến chứng như: hạ sốt, an thần, chống co giật, chống phù não, hồi sức hô hấp và tuần hoàn, cân bằng nước-điện giải, cân bằng kiềm toan, kiểm soát đường máu, kháng sinh chống bội nhiễm, nuôi dưỡng tích cực, săn sóc chống loét. 

Dự phòng bệnh viêm não Nhật Bản chủ yếu dựa vào tiêm phòng vac-xin. Vac-xin phòng bệnh viêm não Nhật Bản được sản xuất lần đầu tiên vào năm 1954. Vac-xin được tiêm cho mọi lứa tuổi, ưu tiên cho trẻ từ 1-5 tuổi trong vùng có dịch lưu hành. Cần tiêm 3 liều để tạo miễn dịch cơ bản, mỗi liều 0,5mL (liều thứ 2 cách liều thứ nhất 1 tuần, liều thứ 3 sau liều thứ hai 1 năm). Sau đó cứ 3 năm tiêm một liều để duy trì miễn dịch bền vững.

Ngoài ra cần áp dụng các biện pháp dự phòng không đặc hiệu khác như: diệt muỗi, nằm màn, tránh muỗi đốt, vệ sinh môi trường ngoại cảnh, vệ sinh chuồng trại, vệ sinh cá nhân.

Viêm não Nhật Bản là một bệnh nhiễm trùng cấp tính của hệ thần kinh trung ương, gây tổn thương các tế bào thần kinh. Tên gọi viêm não Nhật Bản có nguồn gốc từ một vụ dịch xảy ra năm 1924 tại Nhật Bản với hơn 6000 người mắc bệnh, nhiều người tử vong. Năm 1933, các nhà khoa học Nhật Bản đã xác định được tác nhân gây bệnh, đặt tên là virus viêm não Nhật Bản, một loại Arbovirus nhóm B (họ Togaviridae, giống Flavivirus). 

Bệnh có tỉ lệ tử vong cao và để lại những di chứng nặng nề. Ước tính, có khoảng 25 - 35% bệnh nhân viêm não Nhật Bản tử vong và khoảng 50% bệnh nhân có các di chứng thần kinh, tâm thần. 

Nguồn bệnh chủ yếu là các loài chim hoang dã (diệc, liếu điếu…) và gia súc (lợn, ngựa..). Chim và lợn là các ổ chứa virus viêm não Nhật Bản trong tự nhiên. Muỗi hút máu của chim và lợn có chứa virus, sau đó đốt người sẽ truyền virus sang người. Đến nay, đây là con đường duy nhất lây nhiễm viêm não Nhật Bản. Hiện chưa ghi nhận lây truyền từ người sang người. Dù nhiễm virus song lợn không bị bệnh mà đóng vai trò là kho chứa, duy trì virus trong thiên nhiên.

Nhiều loài muỗi có khả năng truyền bệnh, nhưng chủ yếu là 2 loài: Culex Tritaeniorhynchus và Culex vishnui. Cả 2 loài muỗi này hoạt động mạnh vào lúc chập choạng tối và thường sống ở ruộng lúa nước.

Tại Việt Nam, bệnh viêm não Nhật Bản được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1952. Các ổ dịch thường nằm ở những vùng trồng lúa nước kết hợp chăn nuôi lợn hoặc vùng trung du bán sơn địa có trồng nhiều hoa quả (nhãn, vải..) và nuôi lợn. Bệnh có thể diễn ra quanh năm nhưng cao điểm nhất từ tháng 5 - 7.

Đọc thêm

Người phụ nữ có 2 bàng quang

Người phụ nữ có 2 bàng quang. Ảnh: Bệnh viện cung cấp
(PLVN) - Các bác sĩ khoa Phẫu thuật tiết niệu và Nam học, Bệnh viện E mới tiếp nhận và phẫu thuật thành công cho nữ bệnh nhân cao tuổi có 2 bàng quang.

Lạm dụng thực phẩm ngọt: Suy giảm sức khỏe gia đình

Trong 10 năm qua, trung bình mỗi người Việt uống 1 lít đồ uống có đường/tuần. (Ảnh minh họa - Nguồn: Shutterstock)
(PLVN) - Trong 10 năm qua, trung bình mỗi người Việt uống 1 lít đồ uống có đường/tuần, gây nguy hiểm cho sức khỏe bởi những tác nhân từ bệnh không lây nhiễm. Con số đáng báo động này được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) tại Việt Nam cảnh báo tại Hội thảo cung cấp thông tin cho báo chí về tác hại của đồ uống có đường vừa diễn ra vào đầu tháng 4/2024.

Khám sức khỏe miễn phí cho hơn 500 học sinh ở Điện Biên Đông

Khám sức khỏe miễn phí cho hơn 500 học sinh ở Điện Biên Đông
(PLVN) - Ngày 13-14/4, Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam-Cu Ba (Hà Nội) tổ chức Chương trình thiện nguyện tặng quà và thăm khám miễn phí cho hơn 500 học sinh Trường phổ thông dân tộc bán trú - Tiểu học Tìa Dình (xã Tìa Dình, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên) nhân dịp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.

Đẩy mạnh công tác khám chữa bệnh, đào tạo nhân lực cho nước bạn Lào

Bác sĩ Bệnh viện Trung ương Huế trực tiếp hướng dẫn các bác sĩ Bệnh viện Mahosot thực hiện các kỹ thuật can thiệp nội soi tiêu hóa.
(PLVN) - Chiều 13/4, thông tin từ Bệnh viện Trung ương Huế, đoàn y bác sĩ của đơn vị này vừa kết thúc tốt đẹp chuyến công tác tại thủ đô Viêng Chăng (Lào) đánh dấu sự hợp tác hữu nghị của ngành y tế hai nước, giúp nâng cao chất lượng chăm sóc y tế cho người dân Lào. Qua đó, góp phần thắt chặt thêm mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa 2 nước.

Con số đáng tự hào về hiến máu tình nguyện

Tình nguyện viên tham gia hiến máu. Ảnh: Viện Huyết học - Truyền máu Trung ương
(PLVN) - Bộ Y tế đánh giá cao sự điều phối, tương trợ, "chia lửa" của các Trung tâm Truyền máu trên cả nước trong lúc khó khăn, đặc biệt đã hỗ trợ hàng chục nghìn đơn vị máu cho đồng bằng sông Cửu Long. Tỷ lệ hiến máu tình nguyện nước ta hiện đạt 97%...

Khuyến cáo đề phòng biến chứng nguy hiểm do bệnh tuyến giáp

Ảnh minh họa

(PLVN) - Bác sỹ khuyến cáo, người dân khi có biểu hiện như mệt mỏi, đánh trống ngực, gầy sút cân thì cần đi tầm soát bệnh lý tuyến giáp sớm tránh dẫn đến tình trạng suy kiệt, biến chứng đến mắt, tim mạch… Đặc biệt với các trường hợp bệnh nhân basedow mắc các bệnh nhiễm trùng, sốt cao.

Mang lại nụ cười cho trẻ khuyết tật

Các y bác sĩ của bệnh viện Trung ương Huế và đoàn phẫu thuật thiện nguyện Interplast phẫu thuật cho trẻ em mắc dị tật khe hở môi
(PLVN) - Bệnh viện Trung ương Huế cho biết đang phối hợp cùng Đoàn phẫu thuật thiện nguyện Interplast (Tổ chức Interplast, Cộng hòa Liên bang Đức) tổ chức khám sàng lọc và phẫu thuật miễn phí cho các trẻ em mắc dị tật khe hở môi, vòm miệng trên cả nước.

Nhiều dịch bệnh truyền nhiễm gia tăng

Ảnh minh họa: Ngọc Nga
(PLVN) - Từ đầu năm 2024 đến nay, một số bệnh như: tay chân miệng, sởi, ho gà… gia tăng số ca mắc. Đặc biệt, cũng trong thời gian này, nước ta ghi nhận ca bệnh mắc cúm A (H9N2) đầu tiên.

Sức khỏe ca nhiễm cúm A/H9 và 15 người tiếp xúc gần

Ngành Y tế Tiền Giang trong hoạt động phòng, chống dịch bệnh từ động vật lây sang người.

(PLVN) - Ca mắc cúm A/H9 đầu tiên tại Tiền Giang vẫn đang được điều trị, 15 người tiếp xúc gần hiện sức khỏe bình thường. Ngành y tế tỉnh Tiền Giang quyết định công bố kết thúc ổ dịch cúm A/H9N2 trên người tại xã Tân Lý Đông huyện Châu Thành.

Rút ngắn thời gian thực hành đối với bác sĩ

Thứ trưởng Bộ Y tế Trần Văn Thuấn đã chủ trì Hội nghị phổ biến Nghị định 96/2023/NĐ-CP của Chính phủ về Luật Khám bệnh, chữa bệnh. Ảnh: Bộ Y tế
(PLVN) -  Rút ngắn thời gian thực hành đối với bác sĩ từ 18 tháng xuống còn 12 tháng. Điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật y rút ngắn thời gian thực hành từ 9-12 tháng xuống còn 6-9 tháng, quy định cụ thể nội dung thực hành.