Một căn nhà bán cho hai người khác nhau, nhận tiền của khách mua nhưng chủ căn nhà chỉ “hứa” mà không thực hiện giao dịch. Cơ quan Điều tra (CQĐT) khởi tố vụ án, nhưng Viện kiểm sát (VKS) lại cho rằng không có dấu hiệu lừa đảo…
Hành vi lừa đảo?
Theo bản Kết luận điều tra số 273/KLĐT ngày 22/3/2006 của CQĐT Công an TP.Biên Hòa: Ngày 24/11/1994 UBND TP Biên Hòa ra quyết định (QĐ) số 861 thu hồi 40m2 đất nền nhà cũ số 53/2 đường 30 tháng 4 phường Thanh Bình, TP Biên Hòa do ông C lấn chiếm giao cho Mai Vĩnh Xuân (SN 1961) và vợ Nguyễn Thị Kim Hường (SN 1960) thường trú số 322/61 Khu phố 1, phường Trung Dũng (Biên Hòa) quản lý sử dụng xây nhà ở.
Căn nhà bà Hường đã bán cho ông Mạnh, sau lại bán tiếp cho bà Hiền |
Ngày 21/12/1994 vợ chồng bà Hường bán nền trên cho ông Vương Mạnh (ngụ Biên Hòa) với giá 20 lượng vàng. Ông Mạnh đã giao 18 lượng vàng cho bà Hường và nhận diện tích nhà đất trên sử dụng, còn hai lượng vàng khi nào làm giấy tờ theo qui định của pháp luật xong mới trả.
Toàn bộ giấy tờ nhà số 53/2 phía bà Hường giữ bản chính. Sau khi bán nhà đất cho ông Mạnh, vợ chồng bà Hường nảy sinh ý định bán căn nhà trên lần thứ hai cho chị Huỳnh Thị Ngọc Hiền (SN 1967) ngụ tại TP Biên Hòa nên bà Hường tung tin là cho ông Vương Mạnh thuê căn nhà trên và đưa ra hợp đồng thuê nhà cho chị Hiền xem. Phía bà Hường đã nói với chị Hiền nhà có giấy tờ rồi nên bán cho chị Hiền với giá 45 lượng vàng.
Tin bà Hường, từ ngày 4/12/2003 đến 24/5/2004 chị Hiền đã giao cho bà Hường 38 lượng vàng và 20 triệu đồng. Đến tháng 10/2004, chị Hiền mới phát hiện căn nhà 53/2 đường 30 tháng 4 bà Hường đã bán cho ông Vương Mạnh vào năm 1994.
Vụ việc được cơ quan công an thụ lý, tại CQĐT bà Hường thừa nhận căn nhà bán cho chị Hiền chính là căn đã bán cho ông Mạnh vào năm 1994. Tuy nhiên bà Hường khai rằng đã trả chị Hiền 38 lượng vàng và 20 triệu đồng để hủy bỏ hợp đồng bán mua nhà.
Qua đối chất giữa chị Hiền và bà Hường và căn cứ vào kết quả giám định bản hủy bỏ hợp đồng có ghi đã trả chị Hiền số tiền, vàng nói trên, CQĐT kết luận “Chưa có căn cứ xác định việc Hường đã trả số vàng 38 lượng và 20 triệu đồng cho chị Hiền hay chưa.”, CQĐT Công an TP. Biên hòa chuyển hồ sơ sang VKSND TP Biên Hòa đề nghị truy tố bị can Nguyễn Thị Kim Hường về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 139 Bộ luật Hình sự”.
Cơ quan tố tụng “lệch” nhau?
Hơn hai năm kể từ ngày có kết luật điều tra và đề nghị truy tố bà Hường về tội lừa đảo, bất ngờ ngày 1/7/2008 VKSND TP. Biên Hòa thông báo cho chị Hiền biết đã đình chỉ vụ án và đình chỉ điều tra đối với bà Hường vì không có dấu hiệu …lừa đảo. Đồng thời hướng dẫn chị Hiền khởi kiện đòi tài sản tại tòa án.
Ngày 5/1/2011, Bản án số 01/2011/DSST của TAND TP. Biên Hòa xét xử vụ kiện đòi tài sản, tuyên buộc bà Hường phải trả chị Hiền 38 lượng vàng và 20.000.000 đồng; Tuy nhiên, ngày 30/5 vừa qua, TAND tỉnh Đồng Nai đã hủy toàn bộ bản án sơ thẩm nói trên giao cho TAND TP Biên Hòa xét xử lại.
Trước sự “lệch” nhau của các cơ quan tiến hành tố tụng, chị Hiền bất bình: “Tại sao Công an, VKS, Tòa án lại có quan điểm trái ngược nhau như vậy? Công an kết luận có dấu hiệu lừa đảo, Viện thì bảo không, Tòa xử buộc bà Hường trả tôi tài sản rồi lại bị hủy bỏ? Chín năm qua tôi phải đi tới đi lui đến chóng cả mặt mà vụ việc vẫn chưa đâu vào đâu chỉ vì các cơ quan tố tụng “lệch” nhau”.
Trao đổi với chúng tôi về cách nhìn nhận vụ việc của các cơ quan tiến hành tố tụng tại TP Biên Hòa, một luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai cho biết: “Theo tôi hành vi của bà Hường có dấu hiệu lừa đảo để chiếm đoạt tài sản của bà Hiền. Công an đã đề nghị khởi tố nhưng VKS đình chỉ vụ án là chưa thỏa đáng, cần xem xét phục hồi điều tra hành vi một căn nhà bán cho hai người nói trên”. Còn ông Vương Mạnh cũng khẳng định với phóng viên:“Bà Hường bán nhà cho tôi vào năm 1994 là đúng”.
Qua chứng cứ tại hồ sơ và các nhân chứng nói trên, đề nghị các cơ quan tố tụng tại TP Biên Hòa và tỉnh Đồng Nai xem xét lại vụ việc để có tiếng nói chung.
Điều 139. Bộ luật Hình sự: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (TS): Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt TS của người khác thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm khi: Chiếm đoạt TS có giá trị từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: Chiếm đoạt TS có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên… |
Hồng Cơ