Ngôi làng duy nhất còn giữ nghề làm khăn xếp ở miền Bắc

Nghề làm khăn xếp được truyền qua nhiều đời ở làng Giáp Nhất.
Nghề làm khăn xếp được truyền qua nhiều đời ở làng Giáp Nhất.
0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Không có sử sách ghi chép, cũng không ai biết được từ khi nào làng Giáp Nhất (thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định) bắt đầu làm khăn xếp. Có quãng thời gian làng nghề này tưởng chừng rơi vào mai một nhưng đến nay đây vẫn là nơi lưu “giữ hồn Việt” trong từng chiếc khăn xếp.

Tinh hoa làng nghề

Hình ảnh áo the khăn xếp trong những ngày lễ hội, đám cưới, mừng thọ... từ lâu đã không còn lạ lẫm đối với người Việt. Bao đời nay, đối với người Việt Nam, ngoài áo dài của phụ nữ thì bộ áo the khăn xếp cũng được xếp vào hàng trang phục truyền thống của người Việt Nam, tạo nên một nét văn hóa độc đáo riêng của dân tộc. 

Khăn xếp còn được biết đến với những tên gọi khác như khăn đóng, khăn vấn. Dù được coi là cặp bài trùng nhưng nếu như áo the được sản xuất rộng rãi thì khăn xếp giờ đây chỉ còn được tìm thấy ở ngôi làng Giáp Nhất. Đây là ngôi làng duy nhất còn lại của miền Bắc giữ gìn những bí quyết sản xuất những chiếc khăn xếp nhỏ bé nhưng chứa đựng cả một phần văn hóa dân tộc. 

Để có những chiếc khăn xếp hoàn chỉnh đến tay nhiều khách hàng, mỗi người thợ ở đây phải kỳ công bên từng thước vải lựa. Sẽ không quá khi nói rằng, chứa đựng trong từng chiếc khăn xếp của người Giáp Nhất là kết tinh của trí tuệ và sự khéo léo được trao truyền từ nhiều đời ông cha.

Các mẫu khăn xếp Việt Nam trải qua nhiều thời kỳ.
Các mẫu khăn xếp Việt Nam trải qua nhiều thời kỳ. 

Theo lời kể của những bậc nghệ nhân cao niên trong làng, những năm 1950, khăn xếp Giáp Nhất vẫn theo đôi quang gánh đi khắp mọi miền đất nước. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1960, sản phẩm khăn xếp không còn được ưa chuộng, nhu cầu của khách hàng giảm một cách nhanh chóng.

Đó là giai đoạn khó khăn nhất của người dân làng nghề Giáp Nhất khi phải đứng trước nguy cơ mai một. May mắn khi đó, có nhiều bậc nghệ nhân trong làng vẫn tin rằng khăn xếp có một ngày sẽ được mọi người dùng đến, tiếp tục được tiếp nhận. Vì vậy, nhiều gia đình đã khuyên con cháu cố học hỏi để giữ lấy nghề. 

Đúng như dự đoán, từ năm 1990, rất nhiều người tìm đến làng hỏi mua khăn xếp. Những chồng khăn xếp bị phủ bụi, thậm chí bạc màu cũng được mua. Người dân trong làng bắt đầu quay lại với nghề.

Ngày nay, ở Giáp Nhất có hơn 100 hộ còn giữ nghề, điều đặc biệt ở làng nghề này là mỗi hộ, mỗi cơ sở sản xuất sẽ chịu trách nhiệm một công đoạn để tạo nên một chiếc khăn xếp hoàn chỉnh. Do đó, làng nghề Giáp Nhất là một dây truyền sản xuất tập thể hiếm có. 

Theo ông Đoàn Thanh Sơn, một nghệ nhân nổi tiếng trong làng cho biết, nghề làm khăn xếp của nơi đây được truyền lại từ đời này sang đời khác, ông cha của họ truyền lại cho con cháu qua mỗi thế hệ cho đến tận ngày nay mà không ai biết về lịch sử hình thành nghề của làng. Cha ông họ truyền lại cho mỗi thế hệ sau không chỉ là kỹ thuật mà cả lòng yêu nghề, niềm tự hào về chiếc khăn xếp. 

Các lão nghệ nhân làm khăn xếp của làng nghề Giáp Nhất.
Các lão nghệ nhân làm khăn xếp của làng nghề Giáp Nhất. 

Cũng theo ông Sơn, quy trình làm ra một chiếc khăn xếp sẽ phải trải qua 7 công đoạn từ cắt vải, máy, vẽ hoa... Mỗi công đoạn này không hề đơn giản, đặc biệt trong khâu quấn xếp, người làm cần phải cần mẩn, tỉ mỉ, phải chặt tay để các nếp không bị xô lệch. 

“Đây là phần việc khó, đòi hỏi nhiều kinh nghiệm nhất trong cả quy trình làm khăn xếp. Một chiếc khăn xếp sau khi hoàn thành phải chắc chắn, độ dày các lớp phải đều nhau, cao độ của từng lớp phải hợp lý. Những người chưa có kinh nghiệm hay cẩu thả thì không thể làm ra được những chiếc khăn đẹp”, nghệ nhân Đoàn Thanh Sơn cho biết. 

Chất liệu để làm khăn trước đây là nhiễu, vải lượt, sa tanh. Cốt khăn làm bằng giấy. Bây giờ, khăn xếp được làm bằng chất liệu tốt hơn như sa tanh, bóng, phi, nhung, gấm... ở bên ngoài, bên trong là vải sợi lót, cốt khăn làm bằng mút xốp. 

Làng nghề khăn xếp Giáp Nhất thường sản xuất các loại khăn xếp như loại như khăn đen với 4 quấn, 7 nếp; khăn 5 quấn, 7 nếp; khăn 6 quấn, 9 nếp; khăn quang dùng trong tế lễ (nam giới đội) khăn cô, khăn tế, khăn hầu các giá đồng…

Sở dĩ phân chia ra nhiều loại như vậy bởi theo lời kể của các nghệ nhân làng Giáp Nhất, người xưa có để lại một lề lối cổ truyền về việc đội khăn xếp đối với đàn ông, ở tuổi khác nhau đàn ông sẽ đội khăn xếp theo màu khác nhau.

Như đàn ông từ 50 - 60 tuổi sử dụng loại khăn xếp màu đen, có chữ Thọ hay không đều được. Từ 70 - 89 tuổi phải đội khăn xếp màu đỏ, có chữ Thọ ở trên. Các cụ ông từ 90 tuổi trở lên phải đội khăn màu vàng, chữ Thọ ở trên. Theo đà phát triển của xã hội, khăn xếp Giáp Nhất đã có đủ các loại màu khác nhau. Khi ngắm nhìn hàng trăm chiếc khăn xếp đẹp lung linh dưới nắng dễ làm người ta mê mẩn.

Gìn giữ “quốc hồn” của dân tộc

Hiện tại, mặc dù đã đưa máy móc vào một số công đoạn, các hộ trong làng nghề đã phân chia sản xuất theo từng phần khác nhau để nâng cao năng suất, nhưng thu nhập từ nghề vẫn còn rất thấp. Bình quân thu nhập của nhân công ở đây từ 70.000 - 100.000 đồng/ngày, chỉ bằng non nửa thu nhập so với các làng nghề lân cận như làng hoa Báo Đáp, làng cơ khí Vân Chàng.

Tuy vậy, ông Đoàn Thanh Sơn tâm sự: “Dù nghề làm khăn xếp mang lại giá trị kinh tế không đáng là bao, thậm chí nếu đi so sánh với các làng nghề khác thì đúng là thua thiệt nhưng chúng tôi không bao giờ có ý định từ bỏ nghề này. Bởi đối với dân làng chúng tôi, giá trị của khăn xếp không phải ở tiền bạc mà là ở lịch sử văn hóa, niềm tự hào dân tộc bao đời nay ông cha tôi gìn giữ. Điều đó còn quý giá hơn cả tiền bạc”. 

Hình ảnh khăn xếp được các lãnh đạo cấp cao các nước sử dụng khi tham gia Hội nghị cao cấp về Diễn đàn APEC tại Việt Nam năm 2006.
Hình ảnh khăn xếp được các lãnh đạo cấp cao các nước sử dụng khi tham gia Hội nghị cao cấp về Diễn đàn APEC tại Việt Nam năm 2006.  

Người dân Giáp Nhất ngày nay luôn tự hào chiếc khăn xếp của họ không chỉ phục vụ trong nước, dưới nhu cầu biểu diễn, cá nhân mà khăn xếp của họ được cả quốc tế biết đến.  Đó là “Hôm diễn ra Hội nghị APEC 2006, cả thôn xem tường thuật ai cũng vui khi nhìn các đại biểu đội khăn xếp đến dự hội nghị. Cả nước chỉ có thôn Giáp Nhất và ở Huế làm được khăn xếp. Mỗi lúc khó khăn, chúng tôi tự động viên nhau, làm khăn xếp là đang giữ gìn “quốc hồn” của dân tộc đấy”, ông Sơn tự hào.

Theo các nghệ nhân trong làng, khăn xếp ở Giáp Nhất nói riêng và khăn xếp miền Bắc nói chung vẫn giữ nguyên hình dạng vốn có từ cổ xưa, còn khăn xếp miền Trung, miền Nam thì cách tân nhiều. Trong đó, khác biệt rõ nhất là khăn miền Bắc có nếp quấn dày hơn và dựng ngang, khăn của miền Trung, Nam thì dựng đứng. 

Điểm khác thứ hai là phần lưỡi trai khăn xếp miền Bắc quấn, xếp thành hình chữ Nhân trong khi miền Trung, Nam là hình chữ Nhất. Khác biệt nữa là búi tó (búi để buộc tóc) khăn xếp phía bắc đặt ở phần phía trên đỉnh đầu, khăn xếp miền Trung, Nam đặt thấp hơn, lùi xuống phía sau gáy.

Người làng Giáp Nhất bận rộn quanh năm với việc làm khăn, nhưng khăn xếp chỉ bán chạy nhất vào các tháng Giêng, tháng Hai và tháng Tám hàng năm, thời điểm diễn ra nhiều lễ hội. Sản phẩm làm ra chủ yếu được đưa đến phố Hàng Quạt (Hà Nội) rồi được xuất đi cả nước, trong đó thị trường miền Bắc là chủ yếu.

Ngoài khăn xếp ra, người dân ở đây còn làm được tất cả các loại khăn chầu, khăn cho người dân tộc, khăn thổ mường, khăn cho các rạp hát và các loại áo như áo ngự, áo hầu đồng, áo the. Người trong thôn tự hào, hầu như không có sản phẩm dân tộc nào là họ không làm được. Để bảo đảm chất lượng sản phẩm, các cơ sở sản xuất khăn luôn chọn nguyên liệu cẩn thận. Các loại sơn, nhũ, kim sa, keo, mút… đều phải được lựa chọn công phu. Vải được chọn may phải là loại vải lấy từ làng Vạn Phúc (Hà Nội).

Qua thời gian, làng nghề khăn xếp Giáp Nhất tưởng chừng đã mai một giờ lại hồi sinh, rực rỡ với sắc màu văn hóa của dân tộc. Hôm nay, không chỉ có những người cao tuổi mới tâm huyết với nghề mà còn rất nhiều người trẻ cũng say mê cháy bỏng với ước mơ tiếp nối truyền thống ấy.

Như em Trần Hương Giang một sinh viên đang theo học tại Hà Nội chia sẻ chân thành: “Dù có thể em không sinh sống bằng nghề làm khăn xếp, nhưng ngay từ nhỏ em đã lớn lên cùng những chiếc khăn xếp, dù nghề này không giúp đem lại kinh tế cao nhưng em vẫn muốn cùng cha mẹ giữ nghề. Em sẽ vẫn chăm chỉ học tập và trao dồi kỹ năng làm những chiếc khăn xếp thật đẹp để khi nói chuyện với người khác em có thể tự hào kể và thể hiện nghề truyền thống của làng mình”.

(Còn tiếp) 

Đọc thêm

Giải mã tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt

Nhà thờ họ Trương Việt Nam ở thị trấn Thiên Tôn, Ninh Bình là công trình cấp quốc gia.
(PLVN) - Không chỉ là thần Núi, với lý lịch con thứ 17 của Lạc Long Quân, Lạc tướng Vũ Lâm đời Hùng Vương thứ Nhất, việc thờ cúng Cao Sơn Đại vương tại Hoa Lư tứ trấn và Thăng Long tứ trấn chính là tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, đỉnh cao của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.

Ly kỳ chuyện đại hồng chung cứu chúa ở ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang

Chùa Linh Thứu là một trong những ngôi chùa cổ nhất Tiền Giang.
(PLVN) - Khởi nguyên là ngôi chùa mục đồng giữa khu rừng hoang, Sắc tứ Linh Thứu ngày nay được xem là ngôi chùa cổ nhất đất Tiền Giang. Cổ tự 3 lần được sắc tứ này nổi tiếng với những câu chuyện ly kỳ về chiếc đại hồng chung năm xưa từng cứu chúa Nguyễn Ánh thoát nạn khi còn long đong bôn tẩu phương Nam.

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 7): Vì sao vua Hùng lại mang tên Cao Sơn?

Vua Hùng được nhân dân suy tôn là Đột Ngột Cao Sơn.
(PLVN) - Cao Sơn (núi cao) là danh hiệu mang tính biểu tượng của thần Núi, vị thần trong tín ngưỡng dân gian nguyên thủy. Không phải là thần Núi nhưng hàng nghìn năm qua, Hùng Vương thứ Nhất được nhân dân thờ cúng với thụy hiệu Đột Ngột Cao Sơn. Vì sao vua Hùng lại có danh hiệu này?

Phong thủy và tín ngưỡng thờ thần thánh tại các tứ trấn Việt Nam (Kỳ 6): Khám phá tín ngưỡng thờ thần Huyền Vũ

Núi Cánh Diều tương truyền là nơi thần Thiên Tôn cắm gươm hóa.
(PLVN) - Trong bách thần của tín ngưỡng dân gian Trung Quốc có nhiều vị thần của Đạo giáo. Qua thời gian, từ một thánh thú có biểu tượng rùa - rắn, Huyền Vũ trở thành một vị thần của tín ngưỡng Trung Quốc, rồi thành thần tiên trong Đạo giáo và thành thần của người Việt. Đến nay, những dấu vết, biểu hiện của Đạo giáo có thể tìm thấy trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam.

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 7): Tuệ Trung Thượng Sĩ luận về chuyện sống chết

Tuệ Trung Thượng Sĩ luôn coi nhẹ chuyện sống chết ở đời.
(PLVN) - Không xuất gia đầu Phật, sống cùng thế tục, nhưng tinh thần thiền học khai phóng của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã làm thay đổi nhiều dòng thiền. Trong đó, đối với ngài chuyện sống chết luôn xem nhẹ, bởi chỉ có nhận biết được vòng xoay luân hồi của cuộc đời thì người tu hành mới không vướng bận, mới chuyên tâm tu tập chánh pháp.

Zèng - “báu vật” của người Tà Ôi

Zèng được sử dụng làm của hồi môn trong đám cưới của dân tộc Tà Ôi.
(PLVN) - Việc bảo tồn và phát triển nghề dệt Zèng truyền thống không chỉ giữ gìn biểu tượng văn hóa lâu đời của bà con dân tộc Tà Ôi, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống cho bà con.

Cúng mặn hay cúng chay?

Một mâm cúng chay.
(PLVN) - Cúng mặn hay cúng chay là vấn đề nhiều người dân băn khoăn khi thành kính dâng cỗ cúng cha mẹ, gia tiên. Người Việt chúng ta thường hay nói “trần sao âm vậy”. Nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu thấu đáo câu nói này?

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ

Thơ Thiền Việt Nam (Bài 6): Tâm thiền bình an trong tuyệt tác “Ngư nhàn” của quốc sư Không Lộ
(PLVN) - Thiền sư Không Lộ là một hiện tượng thi ca độc đáo trong dòng thơ thiền Việt Nam. Bài thơ “Ngư nhàn” – “Cái nhàn của ngư ông” được giới chuyên môn đánh giá là sự cất cánh của một tâm hồn thi sĩ. Bài thơ tràn ngập ý vị thiền, qua cái nhìn độc đáo của một nhà sư biết sống tùy duyên, luôn mở lòng, chan hòa với cuộc đời.

Lay lắt nghề thêu tay truyền thống Bình Lăng

Những người thợ của làng nghề Bình Lăng hiện tại chủ yếu là trung tuổi.
(PLVN) - Làng Bình Lăng (xã Thắng Lợi, huyện Thường Tín, Hà Nội) xưa nay được biết đến là làng thêu tay nổi tiếng đất Việt. Sau một thời gian dài phát triển thịnh vượng, giờ đây, bởi thiếu nguồn nhân lực trẻ, thu nhập thấp… thêu tay truyền thống Bình Lăng rơi vào cảnh “thoi thóp”.