'Mốt' ăn mặc của người Việt ở thế kỷ 19

 Một số cảnh sinh hoạt ở Việt Nam cuối thế kỷ 19.
Một số cảnh sinh hoạt ở Việt Nam cuối thế kỷ 19.
(PLO) -Trang phục bình dân của người Việt Nam rất đơn giản, sự cầu kỳ chỉ được thể hiện qua phụ kiện, với đàn ông là chiếc điếu cày, cơi trầu và ống nhổ. Đây là nhận xét của Camille Paris (1856-1908) trong một cuốn sách xuất bản năm 1889.

 

Cuốn sách ghi chép lại những quan sát và nghiên cứu của tác giả, một công chức Pháp phụ trách việc xây dựng đường điện báo nối từ Nam Kỳ đến Huế và Bắc Kỳ, trong suốt thời gian chung sống từ năm 1885 đến năm 1889 với người dân bản địa trên dọc vùng đất dài 700 km thuộc miền Trung ở Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Phan Rang, Bình Thuận.

Sự đơn giản  

Những người địa phương mà Camille tiếp xúc thường xuyên là các phiên dịch người Việt làm việc cho chính quyền Pháp. “Dù ăn mặc theo kiểu Pháp song họ vẫn búi tóc và giữ dải băng cuốn tóc trên đầu. Những người giúp việc thì mặc quần áo đã sờn cũ, trẻ lang thang thì thùng thình trong những bộ đồ lính đã hỏng.

Chiếc áo của phụ nữ và đàn ông Việt Nam rất giống nhau, chỉ khác một điểm là áo của nữ giới dài tới gót chân. Phụ nữ An Nam giấu kín bộ ngực của mình dưới chiếc áo yếm, thường có một màu khác với tấm áo dài.

Họ không thẹn thùng nếu như bộ ngực được che kín dù người khác có thể nhìn thấy chân của họ đến ngang hông. Vào những ngày hè nóng nực, khi ở trong nhà, phụ nữ bình dân cởi tấm áo ngoài và mặc chiếc quần cộc, để trần lưng và chân. Phụ nữ làm việc ngoài đồng thì xắn quần đến tận bẹn.

Trong trang phục bình dân của cả phụ nữ lẫn đàn ông, chiếc quần được may khá rộng, thẳng đến mắt cá chân mà không có bất kỳ chỗ xẻ nào, được làm từ cùng loại vải với áo, và được thắt ngang hông nhờ chiếc dải rút.

Tất cả quần áo, bất kỳ là kiểu gì, đều không có túi. Người An Nam cất tất cả những gì cần thiết vào trong dải rút hay trong khăn đội đầu”, tác giả viết.

Một người An Nam càng giàu, thì càng mặc nhiều lớp áo. Camille từng chứng kiến một người khách quan trọng của mình ở Nam Định mặc đến 7 lớp áo khi đến chơi. Chiếc đầu tiên mặc sát người được làm bằng lụa đen, tiếp theo là một cái màu xanh dương, một màu đỏ, một màu tím, một màu xanh lá cây, một màu nâu khói và cuối cùng là cái áo màu trắng mặc phủ bên ngoài.

Người An Nam để tóc dài từ thời nhà Minh đô hộ. Tóc của đàn ông được búi lên cao, có một chiếc lược cài bên trong để giữ búi tóc. Họ thường cài thêm búi độn giả bên trong để làm cho búi tóc to hơn và cuốn một dải băng đen hay cái khăn bên ngoài để tránh búi tóc bị xộc xệch.

Phụ nữ thì cuốn hết mái tóc vào một cái khăn, sau đó cuốn vòng lên đầu, cũng hơi giống kiểu tóc của đàn ông. Ở miền Bắc, người ta cũng hay gặp một số người cắm thêm một chiếc lược đồi mồi trên búi tóc, đây là kiểu đặc trưng của người dân miền Nam. Khi đi ngoài đường, đàn ông đội thêm chiếc nón và đi dép làm bằng da chó, còn phụ nữ đội nón quai thao.

Phân biệt giới tính theo trang phục

Đối với người nước ngoài, khó mà phân biệt được giới tính nếu như chỉ nhìn vào trang phục vì một nửa dân chúng để đầu trần và đi chân đất. 

Trước hết, người ta cứ nhầm những người đàn ông không có râu đều là phụ nữ. Nhìn trực diện, đàn ông và phụ nữ có cùng kiểu búi tóc. Khăn choàng đầu của họ cũng được làm từ một loại vải và có kiểu buộc như nhau.

Quần áo của người phụ nữ chỉ dài hơn vài cm, nhưng sự khác biệt này không thể nhận ra được nếu như người nước ngoài chưa có kinh nghiệm.

Tác giả Camille nhận ra được một người phụ nữ nhờ ba điểm: Nón quai thao của họ hình tròn, chứ không phải là nón nhọn như của đàn ông, áo yếm thường có màu trắng hay đỏ và đầu mũi dép thường cong tròn lên trên. Nhưng phụ nữ tầng lớp bình dân thì lại đi dép xỏ ngón, cuốn chặt cái áo và không đội nón nên người ta chỉ có thể nhận ra đó là một phụ nữ nhờ bộ ngực nhô lên dưới lớp áo.

Chiếc nón được làm từ lá nón. Nón nhọn của đàn ông rộng 52cm, cao 23cm. Nón tròn rộng 62cm và chỉ cao có 9cm. Một chiếc vòng nhỏ ở bên trong giúp giữ hình dạng của nón. Người ta giữ thăng bằng chiếc nón ở trên đầu nhờ quai nón bằng vải bông hoặc lụa và được buộc vào hai đầu bên phải và trái. 

Quai nón được buông lỏng ở giữa để người đội có thể lấy tay giữ chặt để nón không bị xộc xệch. Để làm điệu, các bà các cô thường cài thêm những quả tua ở hai bên đầu buộc quai nón. Nón của người đàn ông thường được phủ thêm một lớp sơn dầu đen hoặc vàng. Chóp nón được bọc bằng kim loại có màu vàng hay đen, tùy theo màu của nón.

Dép của người An Nam rất đơn giản, đế dép làm từ da chó và có hai quai để giữ chân (giống dép tông ngày nay): Một quai vòng qua ngón cái và quai còn lại vòng qua các ngón chân còn lại. Phụ nữ cũng đi dép nhưng nếu mặc đúng trang phục, họ phải đi dép quai hậu có mũi vòng lên cao.

Mùa đông, họ đi guốc gỗ được sơn đen. Riêng một số nhà nho và quan lại chuộng tất cả những gì từ Trung Quốc thì đi giầy Tầu làm bằng vải đen điểm trắng, có đế làm từ gỗ và cao chưa đến 2cm.

Phụ kiện trang phục

Chỉ phụ nữ mới thích đồ trang sức, gồm nhẫn, vòng tay, hoa tai, phụ kiện cài cạp quần… Nhẫn và vòng tay không được làm trau chuốt, mà chỉ là những vòng tròn khoảng nửa cm, không hình chạm khắc hay được trang trí thêm móc cài.

Hoa tai có kích thước nhỏ, hình tròn, hình bông hồng hoặc đơn giản chỉ là những nụ hoa tai. Nếu phụ nữ nghèo không có hoa tai bằng vàng thì họ chỉ gắn một hột cườm màu vàng hay thậm chí chỉ cần một mẩu tre.

Vòng cổ của họ thường được quấn thành nhiều vòng, đôi khi có đến 600 hạt lớn hơn hạt đậu Hà Lan. Những hạt này thường bằng vàng hay bằng bạc, hoặc một nửa là bạc, còn một nửa là hạt cườm. Thế nhưng, vì những đồ trang sức này không bị bắt buộc nên rất nhiều người không đeo.

Phụ kiện được cài dọc lưng quần gồm một chiếc hộp nhỏ hình trụ rộng 3 cm để đựng vôi ăn trầu, một chiếc hộp lớn hơn đựng lá trầu và miếng cau, một que xiên để đơm trầu, một chiếc nhíp, một que ngoáy tai, một chùm chìa khóa. Riêng đàn ông khó lòng rời khỏi chiếc quạt được làm bằng tre và giấy thô nhuộm màu.

Tục nhuộm răng phổ biến rộng rãi với phụ nữ và được làm rất thủ công. Họ tước một lớp vỏ cọng lá chuối, đủ dài để cuốn quanh hàm răng. Sau đó họ phết một lớp sơn đỏ lên trên lớp đó và gắn chặt lên hàm răng cho tới hôm sau.

Cứ 5 đến 6 ngày, họ lặp lại động tác này và cuối cùng họ lấy chổi vẽ phết hai đến ba lớp sơn đen lên hàm răng. Trong suốt thời gian nhuộm răng, các bà các cô chỉ có thể nuốt đồ ăn, chứ không được nhai.

Thế nhưng, tác giả lại thấy hàm răng đen chẳng có gì là quyến rũ vì khi họ cười, người ta chỉ thấy một hố đen ngòm trong miệng. Riêng đàn ông hiếm khi nhuộm răng, nhưng răng của họ thường có màu đỏ, trông không sạch, do ăn nhiều trầu cau.

Người An Nam có tục để móng tay dài, có thể dài đến 4-5 cm và uốn cong vào trong. Móng tay càng dài thì người đó càng chứng tỏ mình tao nhã hơn. Còn móng tay ngắn là dấu hiệu của tầng lớp nghèo khổ, phải lao động tay chân.

Người Việt vẫn chuộng xăm mình dù từng bị cấm tuyệt đối vào năm 1414 dưới thời cai trị của nhà Minh. Tác giả trích lời giải thích của Trương Vĩnh Ký về nguồn gốc của tục xăm mình như sau:

“Người dân Giao Chỉ (An Nam), sống nhờ vào đánh bắt cá và thường xuyên bị quái vật biển tấn công và cắn, như rắn, cá sấu… Hùng Vương thứ nhất ra lệnh cho ngư dân xăm mình để đánh lừa các loài hải ngư nhờ vẻ bề ngoài giống chúng” (vào khoảng 2.600 năm trước Công Nguyên).

Sau đó, tục xăm mình không chỉ trở thành một kiểu nghệ thuật làm đẹp, mà còn là dấu hiệu của một vài đặc ân, tùy theo loại hình được xăm. Chính vì thế, đến đời vua Trần Anh Tông (1293), mỗi nhà vua đều xăm lên đùi một mặt rồng, dấu hiệu dòng dõi quý tộc và lòng dũng cảm.

Tin cùng chuyên mục

Đọc thêm

Chuyện bí ẩn về bút danh Đoàn Chuẩn - Từ Linh

Những câu chuyện xung quanh việc sáng tác chung của Đoàn Chuẩn và Từ Linh cho đến nay, vẫn còn là bí mật. (Ảnh: Vàng Son một thuở)
(PLVN) - Trong hầu hết các sáng tác của mình, nhạc sĩ Đoàn Chuẩn thường ký bút danh Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Về cái tên Đoàn Chuẩn - Từ Linh có rất nhiều giai thoại. Cho đến tận bây giờ, nhiều người vẫn không thể giải thích hay làm sáng tỏ được việc viết nhạc và lời của hai ông trong các sáng tác.

Phận đời sầu thương của nhạc sĩ Đỗ Lễ

Phận đời sầu thương của nhạc sĩ Đỗ Lễ
(PLVN) - Đỗ Lễ được nhiều người biết đến nhờ những bản tình ca buồn như: “Sang ngang”, “Mắt buồn”, “Ngày tạm biệt”... Những lời ca day dứt, đau thương đã vận vào cuộc đời người nghệ sĩ tài hoa, bạc mệnh này.

Những tài liệu quý về chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ

Những tài liệu quý về chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III (Ảnh: Thùy Dương).
(PLVN) - Trong số tài liệu bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III (Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Bộ Nội vụ), khối tài liệu về chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 là một trong những khối tài liệu phản ánh một phần lát cắt của lịch sử dân tộc vẻ vang, hào hùng giữa thế kỷ XX.

Cảm nhận nhạc Đỗ Bảo ở “Khung trời khác”

Cảm nhận nhạc của Đỗ Bảo giản đơn, mộc mạc, nhưng rất sâu lắng và tinh tế (ảnh NVCC).
(PLVN) - Khung trời khác, là cảm nhận của một chàng ca sỹ Hà Nội về những bài hát do chính một nhạc sỹ Hà Nội sáng tác. Vẫn là những ca khúc quen thuộc của nhạc sỹ Đỗ Bảo, nhưng lại rất mới, rất khác so với những bản thu âm mà khán giả từng nghe trước đó.

Còn mãi tiếng 'oanh ca' Ngọc Lan

Cuộc đời của bà cũng mong manh, bạc mệnh như đóa ngọc lan nhỏ bé. (Nguồn: Nhạc vàng online)
(PLVN) - Tháng 3 là mùa trăm hoa đua nở, nhưng cũng là ngày mất đi một danh ca nổi tiếng người Việt Nam mang tên Ngọc Lan. Bà thành danh ở tuổi 30, nhưng “tài hoa bạc mệnh”, người đẹp đã qua đời ở tuổi 45. Hai mươi năm sau ngày mất, nữ danh ca vẫn để lại tiếc nuối không nguôi trong lòng người hâm mộ.

Có gì ở bom tấn “Godzilla x Kong: Đế chế mới”?

Có gì ở bom tấn “Godzilla x Kong: Đế chế mới”?
(PLVN) - Sau thành công của phần phim “Godzilla Đại chiến Kong”, đạo diễn Adam Wingard và ê-kíp sẽ trở lại trong màn hợp sức của hai siêu quái trong “Godzilla x Kong: Đế chế mới” với một quy mô đồ sộ hơn.