Vì đâu “vạn sự” lại “tùy duyên”?

Vì đâu “vạn sự” lại “tùy duyên”?
(PLVN) - Tại sao có những việc, có những người ta đổ bao công sức, đi bao đường đất mà không thể gặp, không thể hoàn thành. Vậy mà một ngày nọ bỗng dưng mọi thứ “xuôi chèo mát mái”. Ấy là do duyên đã đến. Phật dạy, ở đời vạn sự tùy duyên, có duyên thì hợp, hết duyên thì tan, việc nào cũng vậy…

Mất vợ ngay trong ngày cưới vì không duyên

Chuyện kể rằng, tại huyện Hoằng Nông thời Đường có một viên quan họ Lý, ông có một người con gái đã đến tuổi lấy chồng, muốn gả cho Lư Sinh. Lư Sinh có dung mạo uy nghiêm, râu để dài, phong lưu phóng khoáng.

Cả gia đình Lý thị đều nói: “Thật đúng là một chàng rể tốt”. Sau đó chọn được một ngày tốt để kén rể. Đương thời có một bà đồng cốt, chuyên nói về những chuyện trong tương lai, những điều bà nói ra đều rất ứng nghiệm.

Bởi vì bà ta có quan hệ rất thân với Lý gia, trong lễ thành hôn của gia đình, bà ta cũng tới góp vui. Lý phu nhân thường ngày rất tin lời bà ta, bèn hỏi: “Bà xem giúp tôi con rể Lư lang, quan chức bổng lộc dày mỏng ra sao?”.

Bà đồng hỏi: “Lư lang có phải là người có bộ râu dài?”. Lý phu nhân nói: “Chính xác, đúng là cậu ta!”. Bà đồng nói: “Nếu là người này, có lẽ không phải là con rể của phu nhân. Con rể của phu nhân có dung mạo không giống như vậy”.

 

Lý phu nhân hỏi: “Vậy dung mạo con rể tôi như thế nào?”. Bà đồng đáp: “Đó là một người có khuôn mặt trắng trẻo, trên mặt không có chút râu nào”. Lý phu nhân cảm thấy mười phần kinh ngạc nói: “Theo lời bà nói, thế thì con gái tôi hôm nay không gả đi được rồi!”.

Bà đồng nói: “Sao lại không gả đi được? Đêm nay chắc chắn là được gả đi!”. Lý phu nhân nói: “Bà ăn nói thật hàm hồ, nếu như hôm nay được gả đi, lẽ nào không phải là Lư lang?”. Bà đồng nói: “Ngay cả tôi cũng không biết là vì sao nữa kìa”.

Lời nói vừa dứt, thì nghe thấy bên ngoài trống nhạc vang trời, Lư Sinh đã mang sính lễ tới, đang qùy bái ở ngoài sảnh đường. Lý phu nhân kéo tay bà đồng đi ra khe cửa phía sau sảnh đường, chỉ vào Lư Sinh mà nói: “Bà xem sính lễ kìa, đêm nay chúng sẽ thành hôn, làm sao mà nó không phải là con rể của tôi chứ? Thật nực cười! Thật quá nực cười!”.

Đám người hầu kẻ hạ nhìn thấy Lý phu nhân cười nhạo bà đồng cốt, cũng hùa theo mà nói: “Lão bà bà này quen nói khoác rồi, lần này không chuẩn rồi bà ơi!”. Bà đồng chỉ lặng thinh, một câu cũng không nói.

Chẳng mấy chốc, bạn bè thân hữu đều đã tới đầy đủ để tham dự lễ thành hôn của hai người. Lư Sinh cùng hai người tùy tùng, sau khi hành lễ tại sảnh đường xong, liền đi vào phòng tân nương. Lư Sinh tiến tới gần Lý tiểu thư rồi hạ tấm vải che đầu của nàng xuống, bỗng anh ta giật mình thất kinh, toàn thân ớn lạnh, kêu lên “Trời ơi!” rồi chạy thục mạng ra ngoài.

Bạn bè thân hữu hỏi anh ta điều gì anh ta cũng không nói, chạy thẳng ra khỏi cửa, lên ngựa, quất hai roi phi như bay đi mất. Trong số những người bạn có vài người cố gắng đuổi theo anh ta để hỏi rõ sự tình, Lư Sinh chẳng nói rõ duyên cớ, chỉ xua tay nói: “Không thành được! Không thành được đâu!”. Không có cách nào khác, mấy người bạn đành quay về kể lại sự tình cho mọi người nghe.

(ảnh minh họa)
(ảnh minh họa)  

Lý quan huyện sau khi nghe tin, tức đến nỗi phồng má trợn mắt, hét lên: “Sự tình sao lại thành ra thế này! Sao lại thành ra thế này hả? Con gái ta xinh đẹp như hoa, tại sao lại có thể như thế chứ? Quyết phải gọi mọi người tới xem cho minh bạch!”. Bèn mời bằng hữu thân thích vào phòng trong, gọi con gái ra bái kiến.

Lý quan huyện chỉ vào con gái nói: “Mọi người xem xem, tiểu nữ nhà ta có xứng với Lư lang không, con gái ta có phải xấu xí gì đâu đúng không? Hôm nay Lư lang vừa gặp đã chạy mất, nếu như không cho mọi người chứng kiến, mọi người có khi sẽ nghĩ rằng con ta là quái vật mất!”.

Mọi người ngầng đầu lên xem, con gái Lý quan huyện quả nhiên có phong thái yểu điệu thướt tha, tuyệt sắc vô song. Bạn bè thân hữu bàn tán xôn xao: “Đúng là Lư lang vô phúc”, “Lư Lang không có duyên phận”, “Ban ngày mà mắc sai lầm, gặp phải thần sát”…bàn tán không ngừng.

Lý quan huyện tức giận đùng đùng nói rằng: “Nghĩ tới Lư lang bây giờ cũng không giải quyết được gì nữa rồi, trong các vị quan khách ở đây có ai tình nguyện làm rể nhà ta, đêm nay có thể thành hôn luôn, thân bằng cố hữu tại đây có thể làm chứng, đều là người mai mối”.

Theo đạo Phật, duyên chính là nhân quả
 Theo đạo Phật, duyên chính là nhân quả 

Lời vừa dứt, có một người trong đám quan khách bước ra, tiến tới trước, thong thả điềm tĩnh nói: “Tiểu tử bất tài, xin nguyện được làm rể”. Mọi người nhìn kỹ, chàng trai này họ Trịnh, đã từng được phong làm quan, mặt trắng như phủ phấn, môi đỏ, trên cằm không có một sợi râu nào, nhìn rất anh tuấn.

Mọi người vỗ tay đồng thanh nói: “Nếu là tiểu lang tử này, thì mới thật là Tài Lang, hai người tuổi tác diện mạo tương đồng, môn đăng hộ đối”. Lúc đó liền cử hai vị cao tuổi ra làm mai mối, chọn một người thiếu niên làm phù rể, mời tiểu thư ra làm lễ giao bái, đưa vào động phòng. Bởi vì bà đồng sớm đã có dự ngôn trước, lúc này cả nhà Lý phu nhân đều đã tin cả, không còn dám cười nhạo bà nữa.

Sau khi thành hôn, Trịnh Sinh gặp Lư Sinh, hai người họ vốn có quan hệ rất tốt, Trịnh Sinh mới hỏi: “Đêm hôm ấy tại sao lại như thế?”. Lư Sinh kể: “Tiểu đệ vén tấm vải che đầu ra, nhìn thấy cô gái ấy có hai mắt đỏ ngầu, to như đọi đèn, răng mọc dài, lòi ra hai bên miệng, đâu có phải hình người đâu. Giống hệt như bức hình quỷ dạ xoa trên vách đá vậy! Đệ sợ đến vỡ cả mật, không chạy thì còn làm gì được nữa đây?”.

Trịnh Sinh cười nói: “Nàng ấy đã được gả cho ta rồi”. Lư Sinh ngạc nhiên hỏi: “Huynh không sợ sao?”. Trịnh Sinh trả lời: “Mời đệ đến nhà chúng ta chơi, ta sẽ mời thê tử ra gặp mặt đệ”. Lư Sinh liền theo Trịnh Sinh trở về nhà anh ta, Trịnh phu nhân ra bái chào, khuôn mặt xinh đẹp tự nhiên, tuyệt không phải diện mạo mà hôm trước Lư Sinh nhìn thấy trong phòng, chàng ta tiếc nuối mãi không thôi.

Sau đó được nghe kể về dự ngôn của bà đồng cốt, Lư sinh đã hiểu được nhân duyên quả thực đều đã có định số, liền thở dài. Thật đúng là:“Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”.

Vạn sự tùy duyên - vì sao lại như vậy? 

Phật giáo vẫn thường nhắc nhở “vạn sự tùy duyên”. Vì sao lại như vậy?  Có thể trả lời câu hỏi này bằng 4 lý giải. 

Thứ nhất, “vạn vật nhân sinh duyên, vạn vật nhân sinh diệt”. Có nghĩa là, trên thế gian này, tất thảy mọi điều đều do nhân duyên hợp thành, nhân sinh của chính mình cũng là một đại nhân duyên. Tùy duyên, chính là một loại thái độ sống thuận theo tự nhiên. Không ai biết trước cuộc đời ta sẽ gặp gỡ ai, sẽ vấp phải việc gì, chỉ có thể tùy duyên. 

Thứ hai, “duyên như có, như không”. Có nghĩa là “hữu duyên thiên lí năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”. Có duyên hay vô duyên, thiện duyên hay nghiệt duyên đều đã định trước, tưởng có duyên mà vô duyên, tưởng vô duyên mà hữu duyên. 

Thứ ba, “duyên là nhân quả”. Phật giáo tin rằng, mọi mối duyên trên đời đều bắt nguồn từ nhân quả. Thiện có thiện báo, ác có ác báo, không phải không báo mà chưa tới lúc.

Ai cũng không thoát khỏi quy luật chi phối nhân duyên này. Cho nên, mọi mối duyên đều có lí lẽ, tránh không được, trốn không xong. Phật giảng, hành thiện thì kết thiện duyên, khuyên chúng sinh làm điểu tốt để hưởng phúc lành.

Thứ tư, “duyên đến, duyên đi”. Có nghĩa là trong cuộc đời, không có bữa tiệc nào là không tàn. Ấy là vì duyên đến rồi đi, nó không phải là hiển nhiên, nó là quá trình. Có duyên thì hợp, hết duyên thì tan, việc nào cũng vậy. Cho nên, đừng vì tiếc nuối kết quả mà bỏ lỡ sự tươi đẹp của hành trình. Mấu chốt là tận hưởng những điều đang diễn ra. Cố chấp, tham lam chỉ làm duyên nghiệp thêm dày.

Ở đời này, vạn vật nhân sinh duyên, vạn vật nhân sinh diệt
Ở đời này, vạn vật nhân sinh duyên, vạn vật nhân sinh diệt

Vạn sự tùy duyên là vậy, ai hiểu được lẽ này ở đời thì cuộc sống sẽ nhẹ nhàng lắm thay, bởi có duyên thì hợp, hết duyên thì tan, việc nào cũng vậy. Nhưng cuộc đời lắm ngả, nên hai chữ “tùy duyên” còn phải được hiểu theo một ý rất linh hoạt.

Bàn về sự linh hoạt này, tác giả Huệ Minh trong bài viết “Vạn sự tùy duyên nhưng phải bất biến” cho rằng, tùy duyên còn là thái độ biết tận dụng những nhân duyên mới mẻ đang hội tụ trong hiện tại để giải quyết vấn đề, hay tạo nên những đột phá tốt đẹp hơn. Nó sẵn sàng bỏ qua những dự tính, kể cả những khuôn thước đã được đặt để trước đây.

Thái độ này chỉ có ở những kẻ bản lĩnh và vững chãi thật sự. Họ phải đảm bảo phẩm chất không những không bị thay đổi mà còn tuyệt vời hơn trước khi hành động. Điều này khác hẳn với sự bùng vỡ của cảm xúc – quyết liệt làm cho được như ý rồi mau chóng chán nản và buông xuôi.

Trong bài viết của mình, tác giả đã nhắc đến Thiền sư Trần Nhân Tông thời nhà Trần. Thiền sư Trần Nhân Tông từng khuyên: “Ở đời vui đạo phải tùy duyên/ Hễ đói thì ăn mệt ngủ liền” (Cư trần lạc đạo thả tùy duyên/ Cơ tắc xan hề khốn tắc miên – Cư trân lạc đạo).

Theo thiền sư Trần nhân Tông, tùy duyên có nghĩa là đói thì ăn mệt thì ngủ. Nhưng ăn ra ăn và ngủ ra ngủ; việc nào ra việc ấy, không trộn lẫn nhau, không thấy việc nào quan trọng hơn việc nào; việc nào đến trước thì giải quyết trước, không nôn nóng không bâng khuâng. Nghệ thuật giữ gìn sự thanh thản trong tâm hồn ngay giữa bao sự phiền nhiễu của đời thường chính là thái độ tùy duyên.

Lẽ dĩ nhiên, không ai bắt buộc ta phải tùy duyên. Nhưng khả năng tùy duyên của ta càng lớn thì sự thanh thản trong tâm hồn sẽ càng lớn. Nếu ta vẫn còn tiếp tục đi tìm hạnh phúc ở bên ngoài thì chắc chắn ta sẽ mãi còn mong muốn và áp đặt nhân duyên thuận theo ý mình.

Chỉ khi nào ta đã tìm thấy giá trị hạnh phúc chân thật nơi chính mình thì ta mới chấp nhận được mọi hoàn cảnh. Hòa nhập mọi hoàn cảnh để giúp người giúp đời mà không bị hòa tan, đó chính là mẫu người lý tưởng nhất của xã hội trong mọi thời đại.

Tin cùng chuyên mục

Bụt trong con sinh chưa?

Bụt trong con sinh chưa?

(PLVN) - Tháng Tư là mùa Bụt sinh, mùa sen nở. Trong tâm mỗi chúng ta đều có một đức Phật. Cũng giống như trong một cái đầm hay một cái ao, nếu biết gieo vào và ươm mầm, nhất định ta sẽ trồng được những đóa sen thơm.

Đọc thêm

Những ngọn gió ngát hương…

Những ngọn gió ngát hương…
(PLVN) - Như là đất, là nước, là ánh mặt trời, là lá hoa và những ngọn gió thơm hương... cứ tự tại, an nhiên và cần mẫn dâng hiến cho đời. Lặng lẽ, khiêm cung nhưng cũng đầy kiêu hãnh.

Đền Bạch Mã – Tứ linh xứ Nghệ

Quảng cảnh đền Bạch Mã.
(PLVN) - Bạch Mã là ngôi đền có vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa tinh thần và tâm linh của nhân dân trên mảnh đất Nghệ Tĩnh. Ngôi đền này được xếp thứ 3 trong hàng ngũ "tứ linh": "Nhất Cờn, nhị Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng". 

Phật hiệu A Di Đà và Pháp môn Tịnh độ

Phật hiệu A Di Đà và Pháp môn Tịnh độ
(PLVN) - Sức lan tỏa của pháp môn Tịnh độ và hình ảnh Đức Phật A Di Đà đã đi vào tâm thức người Việt Nam cả trong cách chào hỏi. Niệm Nam mô A Di Đà Phật là đã nói thật nhiều, nói hết tất cả những ý nghĩa sâu xa của Phật đạo...

Thắp sáng lòng biết ơn

Thắp sáng lòng biết ơn
(PLVN) - Thắp sáng lòng biết ơn và ý thức về nguồn cội chính là làm cho tâm thức văn hóa của dân tộc trở thành nguồn mạch, thành dòng nhựa sống nuôi dưỡng tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái và hiếu hạnh dân tộc Việt.

Hạ về, sen nở mừng ngày Phật đản sinh

Hạ về, sen nở mừng ngày Phật đản sinh
(PLVN) - Ngày mùng 8 tháng 4 là ngày Bụt ra đời. Gần 3000 năm trước, từ bước chân của con người vĩ đại ấy, nhân loại được biết đến một sự thật lớn: “Tất cả chúng sinh đều có tính Bụt”.

Những nẻo đường hóa duyên

Những nẻo đường hóa duyên
(PLVN) - Không nhất thiết phải tới chùa mới có thể làm công quả, mới có thể thấy Phật. Càng không phải ở nơi những vị tu hành, mới thấy được bóng dáng của một Thiền sư.

Điển tích Chùa Bổ Đà có vườn tháp lớn nhất Việt Nam, lưu giữ bộ mộc bản kinh Phật cổ nhất

Một góc chùa Bổ Đà.
(PLVN) - Chùa Bổ Đà là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt. Chùa là quần thể lớn, tọa lạc tại thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang - danh lam cổ tự nổi tiếng của xứ Kinh Bắc xưa. Chùa Bổ Đà có điển tích huyền bí, cũng như có vườn tháp lớn nhất Việt Nam, lưu giữ bộ mộc bản kinh Phật cổ nhất.

Dấu xưa thời khẩn hoang lập ấp ở ngôi đình cổ nhất phương Nam

Ngôi đình với kiến trúc truyền thống độc đáo vẫn đứng vững theo thời gian.
(PLVN) - Đình Thông Tây Hội (phường 11, quận Gò Vấp, TP HCM) đã có từ hơn 3 thế kỷ trước, từ thuở những nhóm cư dân đầu tiên xuôi Nam vượt ngàn dặm đường đến vùng Gia Định mở đất. Trải qua bao biến thiên dâu bể, ngôi đình cổ nhất đất Nam Bộ này vẫn còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa - tín ngưỡng tốt đẹp của dân tộc và nghệ thuật kiến trúc truyền thống độc đáo.

Ngôi đền thiêng thờ vị thần “hộ dân bảo quốc” suốt 4000 năm lịch sử

Toàn cảnh đền Đồng Cổ.
(PLVN) - Đó là đền Đồng Cổ thờ thần Đồng Cổ - vị thần có công lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Ngôi đền tọa lạc tại làng Đan Nê (xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa) tương truyền có từ thời Hùng Vương, soi bóng xuống hồ bán nguyệt, bên cạnh là núi Tam Thai có quán Triều Thiên trên đỉnh nhìn xuống toàn cảnh sông Mã.

longformNgôi đền thiêng 1500 tuổi nơi phát tích bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà“

Đền Xà.
(PLVN) - Đền Xà thờ đức thánh Tam Giang, tọa lạc tại thôn Xà Đoài, xã Tam Giang (huyện Yên Phong, Bắc Ninh) có niên đại từ thế kỷ 6 đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1988. Ngôi đền thiêng cũng là nơi phát tích bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà” - bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. 

Đình Quan Lạn – Ngôi đình thiêng 300 tuổi bên sóng nước Vân Đồn

Đình Quan Lạn đã có lịch sử hơn 300 năm.
(PLVN) - Đình Quan Lạn (xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh) được xây dựng ở giữa làng, nhìn ra vịnh biển nơi có ba hòn đảo tạo nên bức bình phong, phía sau tựa vào năm ngọn núi... Các bậc tiền đã xây dựng ngôi đình Quan Lạn với lối kiến trúc độc đáo ghi dấu ấn văn hóa của người Việt trên vùng biển Đông Bắc. Điều đó không chỉ được thể hiện qua sự độc đáo của kiến trúc mà còn ngay trong lễ hội có một không hai của đình Quan Lạn. 

Ngôi đình 300 tuổi đẹp nhất xứ Kinh Bắc còn tồn tại đến ngày nay

Đình Bảng là một trong những ngôi đình làng đẹp nhất xứ Kinh Bắc.
(PLVN) - Trong suốt gần 300 năm, trải qua hàng loạt những biến cố của lịch sử dân tộc ngôi đình làng Đình Bảng (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) vẫn đứng vững. Đình làng Đình Bảng từ lâu đã được coi là một trong những ngôi đình đẹp nhất xứ Kinh Bắc và cả Việt Nam, bởi đây là một công trình kiến trúc cổ đồ sộ chứa đựng giá trị nghệ thuật trang trí gỗ truyền thống đặc sắc. 

Cổ tự trăm tuổi với tập tục “đánh kẻ tiểu nhân” ở Sài Gòn

 Hội quán Ôn Lăng được cộng đồng người Hoa xây dựng năm 1740.
(PLVN) - Được xây dựng từ gần 300 năm trước, Hội Quán Ôn Lăng (đường Lão Tử, phường 11, quận 5) là điểm đến linh thiêng trong cộng đồng người Hoa ở TP HCM. Nơi đây nhiều năm qua được biết đến với tập tục có một không hai - “đánh kẻ tiểu nhân”, mang ý nghĩa cầu may mắn, bình an đồng thời xua đuổi những điều xui xẻo, những “kẻ tiểu nhân” đi theo quấy rối mình.