Nếu yêu nhau, xin đừng uống canh Mạnh Bà để kiếp sau gặp lại còn nhớ về nhau!

Nếu yêu nhau, xin đừng uống canh Mạnh Bà để kiếp sau gặp lại còn nhớ về nhau!
(PLVN) - Thời xưa, mà cả thời nay, khi các đôi trai gái yêu đương thường thề thốt với nhau rằng: “Qua cầu Nại Hà cũng không uống canh Mạnh Bà. Để kiếp sau còn nhớ, kiếp sau còn mãi đi tìm”. Vậy canh Mạnh Bà là gì và tại sao một món ăn lại gắn liền với chuyện tình yêu của mỗi người?

Nước mắt của nỗi đau âm thầm suốt cuộc đời

Thượng tọa Thích Nhật Từ - Phó Viện trưởng Viện Phật giáo Việt Nam tại TP HCM kể rằng, mỗi buổi sáng tại chùa Giác Ngộ nơi sư thầy trụ trì có một bà lão khoảng ngoài bảy mươi tuổi thường đến lễ lạy trước tượng Bồ tát Quan Thế Âm. Một hôm sư thầy quan sát thấy sau khi lễ Bồ tát, bà ngồi trầm ngâm với những giọt nước mắt lăn dài trên má.

Sư thầy thắc mắc hỏi: “Điều gì khiến bà buồn đến độ phải khóc trước đức Bồ tát Quan Thế Âm? Chồng con bà đã làm gì không phải với bà?”. Bà trả lời: “Những đứa con của tôi đã trưởng thành, đều là kỹ sư, tiến sĩ. Chúng có cuộc sống ổn định và thường xuyên chu cấp rất chu đáo cho tôi. Chồng tôi cũng là người chồng lý tưởng, ở ông không có điểm gì đáng chê trách”. Sư thầy hỏi tiếp: “Vậy bà khóc vì cái gì?”. 

Một lúc sau bà mới chia sẻ rằng, thuở thanh xuân bà thương yêu một chàng trai nghèo khó, hai bên rất tâm đầu ý hợp. Tuy nhiên gia đình bà không chấp nhận gả con vì không môn đăng hộ đối. Cha mẹ ruột buộc bà phải lấy người chồng hiện tại của bà. Khi bà lên xe hoa về nhà chồng, người tình cũ đã viết cho bà một lá thư tuyệt mệnh trước khi tự tử.

Chén canh Mạnh Bà gắn với câu chuyện những mối tình khổ đau
Chén canh Mạnh Bà gắn với câu chuyện những mối tình khổ đau  

Bà âm thầm ôm nỗi đau đó suốt mấy chục năm không dám nói với người chồng mới của mình và cũng không hề tự sự với các con. Mỗi ngày đối diện trước bàn Phật, bà thầm niệm chư Phật và Bồ tát Quan Thế Âm độ hương hồn người yêu tha thứ cho hoàn cảnh của bà và siêu sinh thoát hóa. 

Sánh đôi và cùng bước với người chồng mới, có được những người con hiếu kính, nói theo dân gian đây là mẫu vợ chồng lý tưởng, ấy thế mà, tâm của bà lúc nào cũng canh cánh nghĩ về người xưa. Bởi vì người đó đã hy sinh và nguyện giữ trái tim của mình chứ không muốn bước với một người nào khác. Anh ta chấp nhận bạn gái của mình đến với người thứ hai, còn anh ta sẽ ở vậy để chờ một kiếp sau…”

Ở góc độ cuộc đời, đây là một câu chuyện về mối tình buồn, nhưng ở góc độ tầng nghĩa, suy nghĩ của người phụ nữ trong truyện cho thấy bà tin tưởng rằng người yêu mình vì quá yêu thương mình nên sẽ chờ mình ở kiếp sau và bản thân bà cũng thầm hẹn kiếp sau sẽ trả cho người yêu món nợ nhân duyên của kiếp này.

Đã yêu nhau đừng uống canh Mạnh Bà để kiếp sau còn nhớ, còn tìm nhau

Dân gian nói rằng, những người “hẹn nhau ở kiếp sau” như vậy, muốn thực hiện được lời hẹn ước thì phải không uống canh Mạnh Bà. Vậy canh Mạnh Bà là gì và tại sao một món ăn lại gắn liền với chuyện kiếp sau, kiếp trước của con người?

Các nền văn hóa của tôn giáo phương Đông (Phật giáo và Đạo giáo) đều cho rằng sau khi thọ mệnh người ta kết thúc, con người ta sẽ phải trải qua một chặng đường, rồi sau đó mới quyết định vong linh là có thể đi vào cõi nào để tiếp tục luân hồi: hoặc là lên trời hưởng phúc lành, hoặc là tiếp tục đầu thai làm người nữa hoặc loại động vật nào đó, hoặc là bị đánh vào mười tám tầng địa ngục như trong truyền thuyết để chịu khổ hình.

Chặng đường mà mỗi người phải đi qua sau cái chết, đầu tiên là qua Quỷ Môn quan, rồi đến một con đường gọi là đường Hoàng Tuyền, hai bên đường nở rộ một loại hoa đẹp, chỉ thấy hoa nở không thấy lá xanh, người cõi dương gian gọi là hoa Bỉ Ngạn (hoa của cõi bên kia). Con đường này cần phải đi rất lâu rất lâu, đến tận cuối con đường sẽ có một con sông nhỏ gọi là Vong Xuyên Hà.

Trên sông có một chiếc cầu đá gọi là cầu Nại Hà, bờ đối diện bên kia của cây cầu có một gò đất gọi là Vọng Hương đài. Bên bờ sông Vong Xuyên còn có một tảng đá, gọi là Tam Sinh thạch (đá ba đời), ghi chép lại đời trước, đời này và đời sau của mỗi một người. Đi qua cầu Nại Hà, đứng trên Vọng Hương đài nhìn nhân gian một lần cuối cùng, sau đó mới đi vào cõi âm tào địa phủ.

Bên cạnh Vọng Hương đài có một cái đình nhỏ gọi là đình Mạnh Bà. Ở đó có một người đàn bà tên là Mạnh Bà trông chừng và đưa cho mỗi người qua đường một chén canh Mạnh Bà. Uống canh Mạnh Bà sẽ khiến người ta quên hết tất cả mọi chuyện.

Trong cuốn “Ngọc lịch sao truyện” có ghi chép rằng, Mạnh Bà sinh sống vào thời kỳ Tây Hán. Từ nhỏ bà đã học tập các loại sách của Nho gia. Sau khi lớn lên, bà chuyên tâm niệm tụng kinh Phật. Lúc sinh sống trên đời, bà tuyệt không nhớ về quá khứ mà cũng không nghĩ những chuyện của tương lai mà chỉ toàn tâm toàn ý khuyên bảo mọi người đừng sát sinh, nên ăn chay.

Câu chuyện canh Mạnh Bà trở thành truyền thuyết tình sầu, lấy đi nước mắt của bao nhiêu người...
Câu chuyện canh Mạnh Bà trở thành truyền thuyết tình sầu, lấy đi nước mắt của bao nhiêu người... 

Đến năm 81 tuổi, bà vẫn là một thiếu nữ trinh trắng. Người đời gọi bà là “Mạnh Bà A Nãi”. Sau đó, bà tiếp tục vào trong núi tu hành và cuối cùng đắc đạo thành Tiên. Vào thời Đông Hán, trên thế gian có nhiều người biết được chuyện kiếp trước và kiếp sau nên thường xuyên tiết lộ Thiên cơ (điều bí mật không thể tiết lộ). Vì vậy, Thượng thiên đặc mệnh cho Mạnh Bà làm thần ở âm phủ, đồng thời cũng vì bà mà xây dựng “Vọng Hương Đài”.

Mạnh Bà dùng những dược liệu của trần gian để điều chế thành một loại canh giống rượu nhưng không phải rượu có tên là canh Mạnh Bà hay còn gọi là cháo lú. Canh Mạnh Bà còn có một loại truyền thuyết nữa là, Mỗi một người trong dương gian đều có một cái chén của mình ở tại nơi này, canh Mạnh Bà trong chén, thật ra chính là nước mắt chảy suốt một đời của bản thân người ta khi còn sống. Mỗi một người khi còn sống, đều sẽ chảy nước mắt: hoặc vui, hoặc buồn, hoặc đau khổ, hoặc căm hận, hoặc sầu não, hoặc yêu thương …

Mạnh Bà thu giữ từng giọt từng giọt nước mắt của họ lại, đun nấu thành canh, khi họ rời khỏi nhân gian, đi đến đầu cầu Nại Hà, sẽ cho họ uống vào, quên hết yêu hận tình thù khi còn sống, kiền tịnh sạch sẽ, bắt đầu tiến nhập vào lục đạo, hoặc là tiên, hoặc là người, hoặc là súc sinh…

Mỗi một người đều phải đi qua cầu Nại Hà, Mạnh Bà đều sẽ hỏi có uống canh Mạnh Bà không, nếu muốn qua cầu Nại Hà, thì cần phải uống canh Mạnh Bà. Còn không uống canh Mạnh Bà, thì không qua được cầu Nại Hà, không qua được cầu Nại Hà, thì không được đầu thai chuyển sinh. Nhưng không phải mỗi người đều sẽ can tâm tình nguyện uống canh Mạnh Bà. Bởi vì một đời này, sẽ luôn có người từng yêu không muốn quên đi. 

Tượng Mạnh Bà
Tượng Mạnh Bà  

Vong Xuyên hà còn gọi “Tam Đồ hà”, chắn ngang giữa đường Hoàng Tuyền và âm phủ. Nước sông có màu đỏ như máu, bên trong hết thảy đều là cô hồn dã quỷ không được đầu thai, trùng rắn khắp nơi, những trận gió tanh hôi tạt thẳng vào mặt. Vì để kiếp sau có thể gặp lại người mình yêu thương nhất trong kiếp này, nên có người không uống canh Mạnh Bà chấp nhận nhảy vào  Vong Xuyên hà bao đau đớn,  đợi trên nghìn năm mới có thể đầu thai.

Trong nghìn năm đó, họ sẽ nhìn thấy người mà mình yêu thương nhất trong kiếp này đi trên đầu, nhưng không thể nói chuyện với nhau, vì mình thấy họ, nhưng họ lại không thấy mình. Sau nghìn năm, nếu như lòng nhớ nhung không hề giảm đi, còn có thể nhớ được chuyện của đời trước, vậy thì có thể trở lại nhân gian, tìm kiếm người mà mình yêu nhất trong đời trước.

“Mạnh Bà thang” – lấy nước mắt người đọc

Câu chuyện chặng đường sau cái chết và chén canh Mạnh Bà đúng sai thực hư thế nào không ai có thể chứng minh, nhưng nghìn đời nay những người đã và đang yêu nhau vẫn tin như vậy. Và cũng vì lòng tin này mà họ lấy câu thề bồi: “Qua cầu Nại Hà cũng không uống canh Mạnh Bà. Để kiếp sau còn nhớ, kiếp sau còn mãi đi tìm” để hẹn ước với nhau, để hứa với nhau một mối tình chung thủy.

Không chỉ thế chén canh Mạnh Bà còn đi vào văn chương nghệ thuật. Tác giả Âu Dương Sảnh đã có truyện ngắn “Mạnh Bà thang” lấy được nước mắt của bao thế hệ người đọc. Chuyện kể rằng có người con gái chết tức tưởi vì tai nạn giao thông trước lễ cưới chỉ một tháng.

Khi xuống âm phủ cô được Mạnh Bà đưa cho chén canh bảo uống. Nhưng cô không uống vì vẫn nhớ lời hẹn thề với người yêu: “Nếu sau này em chết, em sẽ không uống canh Mạnh Bà. Để kiếp sau còn nhớ, kiếp sau còn mãi đi tìm…”. 

Từ chối chén canh, cô gái bỏ chạy và tận mắt chứng kiến người yêu mình đã vội quên người cũ để yêu đương cùng nhân tình mới. Buồn đau, trở lại gặp Mạnh Bà lần nữa, những tưởng cô sẽ uống chén canh để quên đi, nào ngờ “cô cầm lấy bát canh, lòng bộn bề suy nghĩ. Rồi bỗng cô hất bát canh xuống Vong Xuyên giang và chạy vụt qua cầu Nại Hà. "Đừng!" - Mạnh Bà kêu lên.

Nhưng đã quá muộn, cô chạy lên chiếc cầu hình cầu vồng. Khi đến giữa cầu, bỗng cô trượt chân, ngã xuống sông Vong Xuyên. Cả người cô rơi xuống sông. Nhưng đôi môi cô vẫn cười. Qua cầu Nại Hà cũng không uống canh Mạnh Bà. Để kiếp sau còn nhớ, kiếp sau còn mãi đi tìm… Một giọt nước mắt trong suốt rơi trong không trung. Thân hình nhỏ bé của cô bị dòng nước sông đục ngầu nuốt trọn”….

(Mời các bạn đón đọc: Hoa bỉ ngạn và truyền thuyết về những mối tình dở dang...) 

Tin cùng chuyên mục

Bụt trong con sinh chưa?

Bụt trong con sinh chưa?

(PLVN) - Tháng Tư là mùa Bụt sinh, mùa sen nở. Trong tâm mỗi chúng ta đều có một đức Phật. Cũng giống như trong một cái đầm hay một cái ao, nếu biết gieo vào và ươm mầm, nhất định ta sẽ trồng được những đóa sen thơm.

Đọc thêm

Những ngọn gió ngát hương…

Những ngọn gió ngát hương…
(PLVN) - Như là đất, là nước, là ánh mặt trời, là lá hoa và những ngọn gió thơm hương... cứ tự tại, an nhiên và cần mẫn dâng hiến cho đời. Lặng lẽ, khiêm cung nhưng cũng đầy kiêu hãnh.

Đền Bạch Mã – Tứ linh xứ Nghệ

Quảng cảnh đền Bạch Mã.
(PLVN) - Bạch Mã là ngôi đền có vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa tinh thần và tâm linh của nhân dân trên mảnh đất Nghệ Tĩnh. Ngôi đền này được xếp thứ 3 trong hàng ngũ "tứ linh": "Nhất Cờn, nhị Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng". 

Phật hiệu A Di Đà và Pháp môn Tịnh độ

Phật hiệu A Di Đà và Pháp môn Tịnh độ
(PLVN) - Sức lan tỏa của pháp môn Tịnh độ và hình ảnh Đức Phật A Di Đà đã đi vào tâm thức người Việt Nam cả trong cách chào hỏi. Niệm Nam mô A Di Đà Phật là đã nói thật nhiều, nói hết tất cả những ý nghĩa sâu xa của Phật đạo...

Thắp sáng lòng biết ơn

Thắp sáng lòng biết ơn
(PLVN) - Thắp sáng lòng biết ơn và ý thức về nguồn cội chính là làm cho tâm thức văn hóa của dân tộc trở thành nguồn mạch, thành dòng nhựa sống nuôi dưỡng tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái và hiếu hạnh dân tộc Việt.

Hạ về, sen nở mừng ngày Phật đản sinh

Hạ về, sen nở mừng ngày Phật đản sinh
(PLVN) - Ngày mùng 8 tháng 4 là ngày Bụt ra đời. Gần 3000 năm trước, từ bước chân của con người vĩ đại ấy, nhân loại được biết đến một sự thật lớn: “Tất cả chúng sinh đều có tính Bụt”.

Những nẻo đường hóa duyên

Những nẻo đường hóa duyên
(PLVN) - Không nhất thiết phải tới chùa mới có thể làm công quả, mới có thể thấy Phật. Càng không phải ở nơi những vị tu hành, mới thấy được bóng dáng của một Thiền sư.

Điển tích Chùa Bổ Đà có vườn tháp lớn nhất Việt Nam, lưu giữ bộ mộc bản kinh Phật cổ nhất

Một góc chùa Bổ Đà.
(PLVN) - Chùa Bổ Đà là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt. Chùa là quần thể lớn, tọa lạc tại thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang - danh lam cổ tự nổi tiếng của xứ Kinh Bắc xưa. Chùa Bổ Đà có điển tích huyền bí, cũng như có vườn tháp lớn nhất Việt Nam, lưu giữ bộ mộc bản kinh Phật cổ nhất.

Dấu xưa thời khẩn hoang lập ấp ở ngôi đình cổ nhất phương Nam

Ngôi đình với kiến trúc truyền thống độc đáo vẫn đứng vững theo thời gian.
(PLVN) - Đình Thông Tây Hội (phường 11, quận Gò Vấp, TP HCM) đã có từ hơn 3 thế kỷ trước, từ thuở những nhóm cư dân đầu tiên xuôi Nam vượt ngàn dặm đường đến vùng Gia Định mở đất. Trải qua bao biến thiên dâu bể, ngôi đình cổ nhất đất Nam Bộ này vẫn còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa - tín ngưỡng tốt đẹp của dân tộc và nghệ thuật kiến trúc truyền thống độc đáo.

Ngôi đền thiêng thờ vị thần “hộ dân bảo quốc” suốt 4000 năm lịch sử

Toàn cảnh đền Đồng Cổ.
(PLVN) - Đó là đền Đồng Cổ thờ thần Đồng Cổ - vị thần có công lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Ngôi đền tọa lạc tại làng Đan Nê (xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa) tương truyền có từ thời Hùng Vương, soi bóng xuống hồ bán nguyệt, bên cạnh là núi Tam Thai có quán Triều Thiên trên đỉnh nhìn xuống toàn cảnh sông Mã.

longformNgôi đền thiêng 1500 tuổi nơi phát tích bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà“

Đền Xà.
(PLVN) - Đền Xà thờ đức thánh Tam Giang, tọa lạc tại thôn Xà Đoài, xã Tam Giang (huyện Yên Phong, Bắc Ninh) có niên đại từ thế kỷ 6 đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1988. Ngôi đền thiêng cũng là nơi phát tích bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà” - bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. 

Đình Quan Lạn – Ngôi đình thiêng 300 tuổi bên sóng nước Vân Đồn

Đình Quan Lạn đã có lịch sử hơn 300 năm.
(PLVN) - Đình Quan Lạn (xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh) được xây dựng ở giữa làng, nhìn ra vịnh biển nơi có ba hòn đảo tạo nên bức bình phong, phía sau tựa vào năm ngọn núi... Các bậc tiền đã xây dựng ngôi đình Quan Lạn với lối kiến trúc độc đáo ghi dấu ấn văn hóa của người Việt trên vùng biển Đông Bắc. Điều đó không chỉ được thể hiện qua sự độc đáo của kiến trúc mà còn ngay trong lễ hội có một không hai của đình Quan Lạn. 

Ngôi đình 300 tuổi đẹp nhất xứ Kinh Bắc còn tồn tại đến ngày nay

Đình Bảng là một trong những ngôi đình làng đẹp nhất xứ Kinh Bắc.
(PLVN) - Trong suốt gần 300 năm, trải qua hàng loạt những biến cố của lịch sử dân tộc ngôi đình làng Đình Bảng (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) vẫn đứng vững. Đình làng Đình Bảng từ lâu đã được coi là một trong những ngôi đình đẹp nhất xứ Kinh Bắc và cả Việt Nam, bởi đây là một công trình kiến trúc cổ đồ sộ chứa đựng giá trị nghệ thuật trang trí gỗ truyền thống đặc sắc. 

Cổ tự trăm tuổi với tập tục “đánh kẻ tiểu nhân” ở Sài Gòn

 Hội quán Ôn Lăng được cộng đồng người Hoa xây dựng năm 1740.
(PLVN) - Được xây dựng từ gần 300 năm trước, Hội Quán Ôn Lăng (đường Lão Tử, phường 11, quận 5) là điểm đến linh thiêng trong cộng đồng người Hoa ở TP HCM. Nơi đây nhiều năm qua được biết đến với tập tục có một không hai - “đánh kẻ tiểu nhân”, mang ý nghĩa cầu may mắn, bình an đồng thời xua đuổi những điều xui xẻo, những “kẻ tiểu nhân” đi theo quấy rối mình.