Huyền thoại về Tôn giả Thương Na Hòa Tu – vị tổ thiền tông đời thứ 3

Huyền thoại về Tôn giả Thương Na Hòa Tu – vị tổ thiền tông đời thứ 3
(PLVN) - Tổ sư thường được hiểu là những Đại sư đã thấu hiểu Phật pháp, đã được truyền tâm ấn qua cách “Dĩ tâm truyền tâm” và truyền lại cho những Pháp tự. Biểu tượng của việc “Truyền tâm ấn” là pháp y và bát, gọi ngắn là “y bát”. Theo truyền thuyết, 28 vị Tổ sư Ấn Độ kế thừa nhau sau Phật Thích Ca để truyền bá Thiền tông và Bồ Đề Đạt Ma, vị Tổ thứ 28 được xem là Tổ thứ nhất của Thiền Trung Quốc sau nối tiếp truyền cho 5 người.

Tôn giả Thương Na Hòa Tu

Tổ thứ ba là Tôn giả Thương Na Hòa Tu, Ngài dòng Tỳ Xá Đa nước Ma Đột La, cha tên Lâm Thắng, mẹ là Kiều Xa Da. Ngài ở trong thai mẹ sáu năm mới sanh. Tục truyền ở Ấn Độ khi nào cỏ Thương Nặc Ca sanh là có một vị thánh nhơn ra đời. Chính khi Ngài lọt lòng mẹ thì thứ cỏ ấy cũng mọc lên, vì thế cha mẹ Ngài đặt tên là Thương Na Hòa Tu.

Theo Phật Tổ Thống Ký có ghi, Tôn giả Thương Na Hòa Tu là trưởng giả thành Vương Xá, trong một kiếp quá khứ, Tôn giả là một thương gia, có lần gặp trên đường một vị Bích Chi Phật bị bệnh nặng. Tôn giả kiếm thuốc thang để chữa trị, thấy áo của vị này rách nát, nên kiếm áo dạ cúng dàng. Bích Chi Phật nói rằng: “Đó là áo  Thương Na, mặc áo đó thành đạo, nên nay lại mang áo đó để vào Niết bàn”. Nói xong Bích Chi Phật bay lên không trung, hiện mười tám phép biến rồi nhập Niết bàn.

Vị thương gia rất đỗi bi ai, chất củi thơm lên hỏa táng xá lợi rồi dựng tháp để cúng dàng, đồng thời phát lời nguyện đến đời sau sẽ có công đức, oai nghi và y phục giống hệt như vậy. Do nguyện lực này mà trong năm trăm kiếp thân trung ấm, áo Thương Na vẫn thường mang trên mình và đến kiếp sau cùng thì tấm áo nói trên cũng từ trong thai mẹ ra đời, lớn lên thì áo theo với thân thể mà lớn lên, khi xuất gia thành áo của người tu, khi thọ đại giới thì biến thành áo “chín mảnh” gọi là cửu điều y. Đó là nguyên ủy của danh xưng Thương Na Hòa tu.

 

Tôn giả Thương Na Hòa Tu để lại chiếc áo cà sa này khi nhập diệt, dặn đệ tử rằng khi nào pháp tận thì áo đó mới biến hoại. Nay áo không còn  nữa. Tương truyền ông là đệ tử của A-nan-đà, đã chứng quả A-la-hán, được giới tăng sĩ Phật giáo  Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ tôn là Đại sư Phật giáo sơ kỳ. Khi Phật giáo truyền đến nhà Hán, ông được tôn là vị Tổ thứ tư của Phật giáo và là vị Tổ thứ ba của dòng Thiền tông Ấn Độ.

Lúc đầu, Ngài xuất gia làm đồ đệ vị tiên ở núi Tuyết. Chính Ngài tu theo pháp tiên đã được thần thông, sau gặp Tổ A Nan, Ngài hồi đầu trở về chánh pháp. Tổ A Nan, thấy Ngài đã thâm ngộ diệu tâm nên truyền pháp.

Tổ lại dặn: Xưa Đức Như Lai đem đại pháp nhãn nầy trao cho Ngài Ca Diếp, Ngài Ca Diếp trao lại cho ta, nay ta sắp vào Niết bàn đem trao lại cho ngươi. Ngươi phải khéo gìn giữ truyền trao không để dứt mất. Sau khi đắc pháp nơi Tổ A Nan, Ngài đi đến khu rừng Ưu Lưu Trà cất tịnh xá hoằng hóa Phật pháp rất hưng thịnh. Sau khi được trao đại pháp nhãn, tôn giả Thương Na Hòa Tu đi du hóa các nơi độ chúng sanh.

Hồi đó tại khu rừng Ưu Lưu Trà thuộc nước Ma Đột La có hai con rồng lửa chiếm cứ, không cho bất cứ ai đến ở, và nếu có xây dựng chùa miếu thì chùa miếu cũng bị nạn hỏa tai. Khi qua địa phương này, tôn giả đã hàng phục được chúng, cho chúng quy y Phật rồi, ở đó tôn giả dựng lên Thương Na Hoà Tu sau khi chứng ngộ quả pháp, có lần đi giáo hoá chúng sinh đã tìm được Ưu Ba Cúc Đa, cho xuống tóc làm thị giả.

Một lần ngài hỏi Ưu Ba Cúc Đa về tuổi đời và tâm tính, được đáp: “Thân con 17 tuổi nhưng tính tình chăớng phải 17 đâu”. Đây là vấn đề hiện tượng và bản chất thuộc triết học, nói chung thì phù hợp nhưng không phải lúc nào cũng phù hợp. Sau khi dặn Ưu Ba Cúc Đa chớ sao nhãng làm đứt đoạn đạo pháp, ngài vào núi ở ẩn nhưng vẫn thiền định theo dõi và nhắc nhở. Khi các tăng chúng chứng được quả A La Hán, Thương Na Hoà Tu bèn hiện 18 ban biến hoá đi vào ánh lửa Tam muội để tự thiêu, xá lị nhập tháp

Đạt được bí mật Thiền tông 

Vì tu theo đạo tiên, ngài tu luyện nên có thần thông, khi gặp tổ A Nan, tổ hỏi: Ông tu có thần thông để làm gì? Ngài kiêu hãnh đáp: Tôi tu có thần thông để thiên hạ kính lể. Tổ A Nan hỏi tiếp: Thiên hạ kính lể để được cái gì? Nghe tổ hỏi câu thứ 2, ngài thấy mình lạc vào chỗ khoe khoang, nên xuống giọng nói với tổ:

Vậy ngài tu theo đạo Phật để được cái gi? Tổ A Nan nói với ngài: Ta tu theo đạo Phật không được cái gì cả mà chỉ để được trở về quê hương chân thật của mình thôi. Nghe tổ A Nan nói không được gì, nên ngài xin tổ nói chỗ được và không được để ngài rõ.

Tổ A Nan Đà nói bài kệ: "Nơi vật lý thế giới này/Tu hành mà được việc này việc kia; Tu theo vật lý phân chia/Chiều Dương vui sướng, kìa là chiều Âm. Thần thông là của chiều Âm/ Ông tu mà được, thần thông của mình; Tức còn luân chuyển tử sanh/ Luân hồi sanh tử đua tranh làm gì? Tâm mình thanh tịnh hằng tri/ Luân hồi sanh tử làm chi được mình; Thiền Thanh Phật dạy rất linh/ Không cần khổ sở mà mình vê quê. Quê xưa chỉ một được về/ Niết bàn thanh tịnh không hề dụng công;  Thiền tông phổ khắp núi sông/ Nhiều người giác ngộ thong dong rất nhiều. Thiền tông Phật dạy không nhiều/ Ai mà nhận được những điều Thiền tông; Vị đó là người có công/ Dẫn mạch nguồn thiền của Phật Thích Ca. Nếu ông mà đã nhận ra/ Niết bàn thanh tịnh Thích Ca lưu truyền; Tức ông là người đủ duyên/ Sẽ được truyền thiền làm Tổ tiếp theo.  Nghe xong bài kệ của Tổ A Nan, ông liền giác ngộ yếu chỉ Thiền tông nên liền trình với Tổ A Nan bài kệ rằng: Cực khổ dụng công thiền/ Để tìm việc linh thiêng; Linh thiêng là hư ảo/ Hư ảo là luân hồi. Luân hồi là đường khổ. Đường khổ mãi trầm luân; Thầy dạy con chỉ "Dừng"/ Lìa ngay đường đau khổ. Tự nhiên hết trầm luân/ Vừa nghe qua con mừng; Mừng vì biết đường khổ/ Xin lạy thầy cám ơn. Không biết chi đáp đền/ Kính xin Thầy chấp nhận; Đệ tử nghe theo Thầy/ Nối tiếp pháp Thiền tông. Phổ đi khắp núi sông/ Của Thích Ca đã dạy; Hiện tại cám ơn Thầy/ Ngày cưa Đức Phật dạy. Xin lạy về núi Linh Sơn/  Kính nguyện ơn trên Phật;  Con xin chuyển pháp Ngài/  Thường còn nơi thế gian. Muôn người được bình an/ Và biết đường giải thoát; Kính xin thầy chứng lòng" - Na Hòa Tu kính lạy.

Nghe xong, Tổ A Nan biết Thương Na Hòa Tu đã đạt được bí mật Thiền tông nên dạy rằng: Tuy ông tiếp xúc với ta thời gian rất ngắn, nhưng ông đã giác ngộ yếu chỉ Thiền tông và đạt luôn bí mật Thiền tông, theo nguyên tắc ta sẽ truyền Thiền tông cho ông làm Tổ sư đời thứ 3.

Nhưng theo lời ghi trong Huyền Ký của Như Lai, khi Như Lai diệt độ 100 năm, ở vùng này có người tên là Thương Na Hòa Tu nối tiếp ta làm Tổ sư Thiền tông đời thứ 3. Do đó, ông phải đợi thêm 20 năm nữa mới đúng ngày Như Lai diệt độ 100 năm. Và đúng 20 năm sau, đúng ngày truyền Thiền tông như đã ghi trong Huyền Ký, Tổ A Nan làm lễ truyền Bí mật Thiền tông cho ông Thương Na Hòa Tu dưới gốc cây cổ thụ bằng một buổi lễ đơn sơ nhưng đúng theo quy định Như Lai đã dạy.

Tin cùng chuyên mục

Bụt trong con sinh chưa?

Bụt trong con sinh chưa?

(PLVN) - Tháng Tư là mùa Bụt sinh, mùa sen nở. Trong tâm mỗi chúng ta đều có một đức Phật. Cũng giống như trong một cái đầm hay một cái ao, nếu biết gieo vào và ươm mầm, nhất định ta sẽ trồng được những đóa sen thơm.

Đọc thêm

Những ngọn gió ngát hương…

Những ngọn gió ngát hương…
(PLVN) - Như là đất, là nước, là ánh mặt trời, là lá hoa và những ngọn gió thơm hương... cứ tự tại, an nhiên và cần mẫn dâng hiến cho đời. Lặng lẽ, khiêm cung nhưng cũng đầy kiêu hãnh.

Đền Bạch Mã – Tứ linh xứ Nghệ

Quảng cảnh đền Bạch Mã.
(PLVN) - Bạch Mã là ngôi đền có vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa tinh thần và tâm linh của nhân dân trên mảnh đất Nghệ Tĩnh. Ngôi đền này được xếp thứ 3 trong hàng ngũ "tứ linh": "Nhất Cờn, nhị Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng". 

Phật hiệu A Di Đà và Pháp môn Tịnh độ

Phật hiệu A Di Đà và Pháp môn Tịnh độ
(PLVN) - Sức lan tỏa của pháp môn Tịnh độ và hình ảnh Đức Phật A Di Đà đã đi vào tâm thức người Việt Nam cả trong cách chào hỏi. Niệm Nam mô A Di Đà Phật là đã nói thật nhiều, nói hết tất cả những ý nghĩa sâu xa của Phật đạo...

Thắp sáng lòng biết ơn

Thắp sáng lòng biết ơn
(PLVN) - Thắp sáng lòng biết ơn và ý thức về nguồn cội chính là làm cho tâm thức văn hóa của dân tộc trở thành nguồn mạch, thành dòng nhựa sống nuôi dưỡng tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái và hiếu hạnh dân tộc Việt.

Hạ về, sen nở mừng ngày Phật đản sinh

Hạ về, sen nở mừng ngày Phật đản sinh
(PLVN) - Ngày mùng 8 tháng 4 là ngày Bụt ra đời. Gần 3000 năm trước, từ bước chân của con người vĩ đại ấy, nhân loại được biết đến một sự thật lớn: “Tất cả chúng sinh đều có tính Bụt”.

Những nẻo đường hóa duyên

Những nẻo đường hóa duyên
(PLVN) - Không nhất thiết phải tới chùa mới có thể làm công quả, mới có thể thấy Phật. Càng không phải ở nơi những vị tu hành, mới thấy được bóng dáng của một Thiền sư.

Điển tích Chùa Bổ Đà có vườn tháp lớn nhất Việt Nam, lưu giữ bộ mộc bản kinh Phật cổ nhất

Một góc chùa Bổ Đà.
(PLVN) - Chùa Bổ Đà là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt. Chùa là quần thể lớn, tọa lạc tại thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang - danh lam cổ tự nổi tiếng của xứ Kinh Bắc xưa. Chùa Bổ Đà có điển tích huyền bí, cũng như có vườn tháp lớn nhất Việt Nam, lưu giữ bộ mộc bản kinh Phật cổ nhất.

Dấu xưa thời khẩn hoang lập ấp ở ngôi đình cổ nhất phương Nam

Ngôi đình với kiến trúc truyền thống độc đáo vẫn đứng vững theo thời gian.
(PLVN) - Đình Thông Tây Hội (phường 11, quận Gò Vấp, TP HCM) đã có từ hơn 3 thế kỷ trước, từ thuở những nhóm cư dân đầu tiên xuôi Nam vượt ngàn dặm đường đến vùng Gia Định mở đất. Trải qua bao biến thiên dâu bể, ngôi đình cổ nhất đất Nam Bộ này vẫn còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa - tín ngưỡng tốt đẹp của dân tộc và nghệ thuật kiến trúc truyền thống độc đáo.

Ngôi đền thiêng thờ vị thần “hộ dân bảo quốc” suốt 4000 năm lịch sử

Toàn cảnh đền Đồng Cổ.
(PLVN) - Đó là đền Đồng Cổ thờ thần Đồng Cổ - vị thần có công lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Ngôi đền tọa lạc tại làng Đan Nê (xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa) tương truyền có từ thời Hùng Vương, soi bóng xuống hồ bán nguyệt, bên cạnh là núi Tam Thai có quán Triều Thiên trên đỉnh nhìn xuống toàn cảnh sông Mã.

longformNgôi đền thiêng 1500 tuổi nơi phát tích bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà“

Đền Xà.
(PLVN) - Đền Xà thờ đức thánh Tam Giang, tọa lạc tại thôn Xà Đoài, xã Tam Giang (huyện Yên Phong, Bắc Ninh) có niên đại từ thế kỷ 6 đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1988. Ngôi đền thiêng cũng là nơi phát tích bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà” - bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. 

Đình Quan Lạn – Ngôi đình thiêng 300 tuổi bên sóng nước Vân Đồn

Đình Quan Lạn đã có lịch sử hơn 300 năm.
(PLVN) - Đình Quan Lạn (xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh) được xây dựng ở giữa làng, nhìn ra vịnh biển nơi có ba hòn đảo tạo nên bức bình phong, phía sau tựa vào năm ngọn núi... Các bậc tiền đã xây dựng ngôi đình Quan Lạn với lối kiến trúc độc đáo ghi dấu ấn văn hóa của người Việt trên vùng biển Đông Bắc. Điều đó không chỉ được thể hiện qua sự độc đáo của kiến trúc mà còn ngay trong lễ hội có một không hai của đình Quan Lạn. 

Ngôi đình 300 tuổi đẹp nhất xứ Kinh Bắc còn tồn tại đến ngày nay

Đình Bảng là một trong những ngôi đình làng đẹp nhất xứ Kinh Bắc.
(PLVN) - Trong suốt gần 300 năm, trải qua hàng loạt những biến cố của lịch sử dân tộc ngôi đình làng Đình Bảng (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) vẫn đứng vững. Đình làng Đình Bảng từ lâu đã được coi là một trong những ngôi đình đẹp nhất xứ Kinh Bắc và cả Việt Nam, bởi đây là một công trình kiến trúc cổ đồ sộ chứa đựng giá trị nghệ thuật trang trí gỗ truyền thống đặc sắc. 

Cổ tự trăm tuổi với tập tục “đánh kẻ tiểu nhân” ở Sài Gòn

 Hội quán Ôn Lăng được cộng đồng người Hoa xây dựng năm 1740.
(PLVN) - Được xây dựng từ gần 300 năm trước, Hội Quán Ôn Lăng (đường Lão Tử, phường 11, quận 5) là điểm đến linh thiêng trong cộng đồng người Hoa ở TP HCM. Nơi đây nhiều năm qua được biết đến với tập tục có một không hai - “đánh kẻ tiểu nhân”, mang ý nghĩa cầu may mắn, bình an đồng thời xua đuổi những điều xui xẻo, những “kẻ tiểu nhân” đi theo quấy rối mình.