Hành trình chứng quả ngộ thiền của Tôn giả Đà Nan Đề

Tượng Phật Tôn giả Đà Nan Đề trong chùa Tây Phương (Hà Nội)
Tượng Phật Tôn giả Đà Nan Đề trong chùa Tây Phương (Hà Nội)
(PLVN) - Tổ Phật Đà Nan Đề sinh sau đức phật nhập Niết bàn 287 năm, cha là Phật Cù Thiên, mẹ là Chí Phương Thu, nước Ca Ma La. Thuở nhỏ trên trán Ngài có cục thịt nổi cao giống như của đức Phật, thường phát ra hào quang năm sắc xen lẫn. Ngài thông minh tuyệt vời, chữ nghĩa một phen xem qua là ghi nhớ. Ngài cũng là người có tài biện luận thông suốt mọi việc và rất nhanh lẹ, sáng suốt.

Chứng quả ngộ Thiền

Năm 14 tuổi, Ngài phát tâm xuất gia chuyên dùng hạnh thanh tịnh để tự tu. Nhân đi du xuân, ngài gặp tổ Bà Tu Mật, có thưa hỏi như sau: Kính thưa thầy, ngài tu để được cái gì? Tổ Bà Tu Mật trả lời ngài: Ta tu để dược cái không tu. Nghe tổ trả lời lạ quá nên ngài hỏi: Tu mà để được cái không tu là tu làm sao? Tổ trả lời: Tức không dính mắc cái gì hết. 

Vậy là, Ngài về trình thưa cùng cha mẹ xin theo tổ xuất gia, cha mẹ bằng lòng, theo tổ học một năm, một hôm ngài hỏi tổ: Bạch tổ nhờ con theo tổ tu học cái không tu hôm nay con đã biết cái không tu ấy.

Tổ bảo: Ông đừng lạm dụng lời người khác. Ngài thưa: Con rõ ràng thường biết thì làm sao lạm dụng lời người khác chứ. Tổ nói: Vậy ngươi nói chỗ thường biết xem có đúng không. Ngài liền chắp tay thưa trình với tổ bằng 64 câu kệ: “Hôm qua con chỉ ngồi chơi/ Tâm con Thanh tịnh, được “rơi về nhà”; Nhà con là chỗ hôm qua/ Thanh tịnh vắng lặng, nhìn xa vô cùng. 

Tuần trước Tổ dạy con “Dừng”/ Luân hồi sinh tử con đừng ham mê; Nhờ vậy con rõ đường về/ Nhà xưa quê cũ, là quê Niết bàn. Về đó con được bình an/ Luân hồi sinh tử, không ràng buộc ta; Thầy dạy ý Phật Thích ca/ Hễ ai nhận được, vượt qua luân hồi. Tu Thiền thanh tịnh mà thôi/ Ai mà thanh tịnh, nhận rồi tánh Nghe; Cái nghe không phải tánh nghe/ Nếu nghe vật lý lên bè trầm luân. Rơi vào Phật tánh con mừng/ Mừng vì sanh tử đã dừng với con; Vào đây chỉ biết hằng còn/ Không sanh không tử không còn thứ chi. 

 

Thiền tông thật là diệu kỳ/ Rơi vào Bể tánh cái chi cũng tường; Vào được không bị vấn vương/ Những thứ vật lý, buồn thương không còn. Thấy nghe thanh tịnh của con/ Con phát ra tiếng, tiếng còn mãi vang; Vang mãi vượt cả trần gian/ Khắp trong vũ trụ, tiếng vang khó lường. Tiếng nói khi ở trong vườn/ Chỉ có trăm thước, hết đường để đi; Thầy dạy Thiền tông diệu kỳ/ Không dính không mắc, cái chi cũng tường.

Hiện tại con hết vấn vương/ Những thứ vật lý, con thường rõ thông; Nhìn cảnh vật và núi sông/ Những thứ duyên hợp, họp xong tan lìa. Thiền tông chỉ rõ thứ kia/ Những thứ vật lý, xa lìa với con; Dầu vàng bằng núi bằng non/ Đến khi tắt thở không còn thứ chi. Thiền tông Phật dạy con ghi/ Khi lìa vật lý không chi phiền mình; Thiền tông, không phải lặng thinh/ Mà thấy cứ thấy mình đừng bận chi. Thiền tông thanh tịnh một khi/ Chừng nào được hút, qua thì màn trong; Là về quê cũ đã xong/ Vào trong Bể tánh là xong luân hồi. 

Con trình chỗ nhận vậy thôi/ Xin thầy chỉ dạy, có lời nào sai; Xin cho con rõ được ngay/ Chỗ con thấy biết có sai chỗ nào? Nhờ Thầy chỉ dạy trước sau/ Nay con biết được đường vào vô sanh; Vào đây tuyệt diệu vô tranh/ Niết bàn thanh tịnh không sanh luân hồi. Con xin trình Thầy vậy rồi/ Xin Thầy xác nhận những lời của con; Lòng con nhất quyết Phải còn/ Lần theo chánh pháp, lòng con quyết làm. Dù cho núi lở sông tràn/ Cũng không lay chuyễn lòng an Phật truyền; Con xin phát đại thệ nguyền/ Dù cho thân nát, con nguyền không lay.

Khi Tổ Bà Tu Mật, nghe Ngài Phật Đà Nan Đề trình 64 câu kệ, nói lên được chỗ “Rơi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh” của mình, Tổ dạy: Ngươi đã vượt qua của Hải Triều Dương, về được “nhà xưa” của mình. Tổ vị thứ Tám ta sẽ trao cho ngươi, vậy ngươi hãy lo buổi lễ truyền “Bí Mật Thiền Tông” này cho tươm tất, đúng 12 ngày nữa, ta sẽ truyền Bí mật Thiền tông cho ông, thay làm Tổ sư Thiền tông đời thứ Tám.

Gặp người nối truyền

Sau khi đắc pháp, Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa khắp nơi. Đến nước Đề Già, Ngài đi qua cổng nhà họ Tỳ Xá La, chợt thấy trên nóc nhà có hào quang trắng xông lên hư không. Ngài chỉ chúng xem và bảo: Trong nhà nầy hiện có một vị thánh nhân, tuy miệng không nói một lời, chân không đi một bước, mà thật là bậc căn khí đại thừa. Dù không ra ngoài đường mà biết việc xúc uế. Quả là người nối pháp cho ta, khiến Phật pháp hưng thịnh. Vị này, sau sẽ độ được năm trăm người chứng quả thánh.

Ngài nói xong, có người trưởng giả trong nhà bước ra làm lễ thưa: Tôn giả cần điều gì dừng lại đây? Ngài bảo: Ta đến tìm người thị giả, chớ không cần gì. Trưởng giả thưa: Nhà tôi đâu có người kỳ đặc mà Ngài tìm, chỉ có đứa con trai tên Phục Đà Mật Đa không biết nói, không biết đi, tuổi đã năm mươi, nếu Ngài cần tôi cho, không tiếc.

Ngài bảo: Đứa con ông nói đó chính là người tôi tìm. Trưởng giả thỉnh Ngài vào nhà. Phục Đà Mật Đa vừa trông thấy Ngài liền ngồi dậy, chấp tay nói kệ: Phụ mẫu phi ngã thân, Thùy vi tối thân giả ? Chư Phật phi ngã đạo, Thùy vi tối đạo giả? Dịch: Cha mẹ chẳng phải thân/ Ai là người chí thân ? Chư Phật phi đạo tôi/ Cái gì là tột đạo? 

Ngài nói kệ đáp: Nhữ ngôn dữ tâm thân/ Phụ mẫu phi khả tỷ/ Nhữ hạnh dữ đạo hiệp/ Chư Phật tâm tức thị/ Ngoại cầu hữu tướng Phật, Dữ nhữ bất tương tợ, Nhược thức nhữ bổn tâm, Phi hiệp diệc phi ly.

Dịch : Lời ngươi cùng tâm thân, Cha mẹ không thể sánh, Hạnh ngươi cùng đạo hiệp, Chư Phật chính là tâm. Ngoài cầu Phật có tướng, Cùng ngươi không chút giống, Nếu biết bổn tâm ngươi, Chẳng hiệp cũng chẳng lìa. Mật Đa nghe bài kệ xong rất hoan hỷ, bước xuống đảnh lễ Ngài và đi bảy bước, một lòng thành khẩn xin xuất gia. Ngài chấp nhận cho xuất gia,liền triệu tập chúng hiền thánh làm lễ truyền giới cụ túc. Sau đó, Ngài lại dặn dò Mật Đa: Pháp nhãn của Như Lai thầm truyền đến đời ta, nay ta trao lại cho ngươi, ngươi nên truyền trao chớ đoạn dứt. Nghe ta nói kệ: Hư không vô nội ngoại, Tâm pháp diệc như thử, nhược liễu hư không cố, Thị đạt chơn như lý. 

(Dịch : Hư không chẳng trong ngoài, Tâm pháp cũng như thế, Nếu hiểu rõ hư không, Là đạt lý chơn như). Mật Đa hân hạnh được truyền pháp vui mừng vô hạn, liền nói kệ khen ngợi: Ngã sư thiền Tổ trung, Thích đương vi đệ bát, Pháp hóa chúng vô lượng, Tất hoạch A-La-Hán. (Dịch : Thầy tôi trong thiền Tổ, Hiện là vị thứ tám, Giáo hóa chúng không cùng, Thảy được quả La Hán). Ngài truyền pháp xong, sắp vào Niết bàn. Hôm ấy đang ngồi trên bổn tòa, Ngài an nhiên thị tịch. Số chúng Ngài độ có đến năm trăm vị chứng nhị quả. Toàn chúng trà tỳ hài cốt Ngài, lượm xá lợi xây bảo tháp tôn thờ.

Trong các thư tịch cổ đều thống nhất vẽ Tổ thứ tám- Phật Đà Nan Đề người béo tốt, ngồi bệt tựa gốc cây, chân phải xếp bằng, chân trái chống nghiêng, tay trái để trên đùi, tay phải đang ngoày tai. Tổ mặc áo phanh ra hở cả ngực và bụng, quần dài tết gấu lại như đăng ten, cổ tay đeo vòng. Tượng Tổ thứ 8 ở chùa Tây Phương bày ở góc ngoài, phía bên phải tòa chùa trong, được bám sát hình trong sách “Thiền Uyển Kế Đăng Lục” tạo một khối căng tròn, óng ả, mặt hỉ hả, đôi mắt hóm hỉnh, miệng cười dễ dãi, khuôn mặt sáng sủa, tất cả toán lên sự thông minh, mềm mỏng, dễ gần. Đây là pho tượng đặc biệt sống động, dù cái que bị mất vẫn luôn gợi động tác ngoáy tai, ngoài sự kích thích còn biểu hiện sự giao tiếp và ứng xử văn hóa uyên bác. 

Tin cùng chuyên mục

Bụt trong con sinh chưa?

Bụt trong con sinh chưa?

(PLVN) - Tháng Tư là mùa Bụt sinh, mùa sen nở. Trong tâm mỗi chúng ta đều có một đức Phật. Cũng giống như trong một cái đầm hay một cái ao, nếu biết gieo vào và ươm mầm, nhất định ta sẽ trồng được những đóa sen thơm.

Đọc thêm

Những ngọn gió ngát hương…

Những ngọn gió ngát hương…
(PLVN) - Như là đất, là nước, là ánh mặt trời, là lá hoa và những ngọn gió thơm hương... cứ tự tại, an nhiên và cần mẫn dâng hiến cho đời. Lặng lẽ, khiêm cung nhưng cũng đầy kiêu hãnh.

Đền Bạch Mã – Tứ linh xứ Nghệ

Quảng cảnh đền Bạch Mã.
(PLVN) - Bạch Mã là ngôi đền có vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa tinh thần và tâm linh của nhân dân trên mảnh đất Nghệ Tĩnh. Ngôi đền này được xếp thứ 3 trong hàng ngũ "tứ linh": "Nhất Cờn, nhị Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng". 

Phật hiệu A Di Đà và Pháp môn Tịnh độ

Phật hiệu A Di Đà và Pháp môn Tịnh độ
(PLVN) - Sức lan tỏa của pháp môn Tịnh độ và hình ảnh Đức Phật A Di Đà đã đi vào tâm thức người Việt Nam cả trong cách chào hỏi. Niệm Nam mô A Di Đà Phật là đã nói thật nhiều, nói hết tất cả những ý nghĩa sâu xa của Phật đạo...

Thắp sáng lòng biết ơn

Thắp sáng lòng biết ơn
(PLVN) - Thắp sáng lòng biết ơn và ý thức về nguồn cội chính là làm cho tâm thức văn hóa của dân tộc trở thành nguồn mạch, thành dòng nhựa sống nuôi dưỡng tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái và hiếu hạnh dân tộc Việt.

Hạ về, sen nở mừng ngày Phật đản sinh

Hạ về, sen nở mừng ngày Phật đản sinh
(PLVN) - Ngày mùng 8 tháng 4 là ngày Bụt ra đời. Gần 3000 năm trước, từ bước chân của con người vĩ đại ấy, nhân loại được biết đến một sự thật lớn: “Tất cả chúng sinh đều có tính Bụt”.

Những nẻo đường hóa duyên

Những nẻo đường hóa duyên
(PLVN) - Không nhất thiết phải tới chùa mới có thể làm công quả, mới có thể thấy Phật. Càng không phải ở nơi những vị tu hành, mới thấy được bóng dáng của một Thiền sư.

Điển tích Chùa Bổ Đà có vườn tháp lớn nhất Việt Nam, lưu giữ bộ mộc bản kinh Phật cổ nhất

Một góc chùa Bổ Đà.
(PLVN) - Chùa Bổ Đà là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt. Chùa là quần thể lớn, tọa lạc tại thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang - danh lam cổ tự nổi tiếng của xứ Kinh Bắc xưa. Chùa Bổ Đà có điển tích huyền bí, cũng như có vườn tháp lớn nhất Việt Nam, lưu giữ bộ mộc bản kinh Phật cổ nhất.

Dấu xưa thời khẩn hoang lập ấp ở ngôi đình cổ nhất phương Nam

Ngôi đình với kiến trúc truyền thống độc đáo vẫn đứng vững theo thời gian.
(PLVN) - Đình Thông Tây Hội (phường 11, quận Gò Vấp, TP HCM) đã có từ hơn 3 thế kỷ trước, từ thuở những nhóm cư dân đầu tiên xuôi Nam vượt ngàn dặm đường đến vùng Gia Định mở đất. Trải qua bao biến thiên dâu bể, ngôi đình cổ nhất đất Nam Bộ này vẫn còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa - tín ngưỡng tốt đẹp của dân tộc và nghệ thuật kiến trúc truyền thống độc đáo.

Ngôi đền thiêng thờ vị thần “hộ dân bảo quốc” suốt 4000 năm lịch sử

Toàn cảnh đền Đồng Cổ.
(PLVN) - Đó là đền Đồng Cổ thờ thần Đồng Cổ - vị thần có công lớn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Ngôi đền tọa lạc tại làng Đan Nê (xã Yên Thọ, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa) tương truyền có từ thời Hùng Vương, soi bóng xuống hồ bán nguyệt, bên cạnh là núi Tam Thai có quán Triều Thiên trên đỉnh nhìn xuống toàn cảnh sông Mã.

longformNgôi đền thiêng 1500 tuổi nơi phát tích bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà“

Đền Xà.
(PLVN) - Đền Xà thờ đức thánh Tam Giang, tọa lạc tại thôn Xà Đoài, xã Tam Giang (huyện Yên Phong, Bắc Ninh) có niên đại từ thế kỷ 6 đã được xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1988. Ngôi đền thiêng cũng là nơi phát tích bài thơ Thần “Nam quốc sơn hà” - bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. 

Đình Quan Lạn – Ngôi đình thiêng 300 tuổi bên sóng nước Vân Đồn

Đình Quan Lạn đã có lịch sử hơn 300 năm.
(PLVN) - Đình Quan Lạn (xã Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh) được xây dựng ở giữa làng, nhìn ra vịnh biển nơi có ba hòn đảo tạo nên bức bình phong, phía sau tựa vào năm ngọn núi... Các bậc tiền đã xây dựng ngôi đình Quan Lạn với lối kiến trúc độc đáo ghi dấu ấn văn hóa của người Việt trên vùng biển Đông Bắc. Điều đó không chỉ được thể hiện qua sự độc đáo của kiến trúc mà còn ngay trong lễ hội có một không hai của đình Quan Lạn. 

Ngôi đình 300 tuổi đẹp nhất xứ Kinh Bắc còn tồn tại đến ngày nay

Đình Bảng là một trong những ngôi đình làng đẹp nhất xứ Kinh Bắc.
(PLVN) - Trong suốt gần 300 năm, trải qua hàng loạt những biến cố của lịch sử dân tộc ngôi đình làng Đình Bảng (thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) vẫn đứng vững. Đình làng Đình Bảng từ lâu đã được coi là một trong những ngôi đình đẹp nhất xứ Kinh Bắc và cả Việt Nam, bởi đây là một công trình kiến trúc cổ đồ sộ chứa đựng giá trị nghệ thuật trang trí gỗ truyền thống đặc sắc. 

Cổ tự trăm tuổi với tập tục “đánh kẻ tiểu nhân” ở Sài Gòn

 Hội quán Ôn Lăng được cộng đồng người Hoa xây dựng năm 1740.
(PLVN) - Được xây dựng từ gần 300 năm trước, Hội Quán Ôn Lăng (đường Lão Tử, phường 11, quận 5) là điểm đến linh thiêng trong cộng đồng người Hoa ở TP HCM. Nơi đây nhiều năm qua được biết đến với tập tục có một không hai - “đánh kẻ tiểu nhân”, mang ý nghĩa cầu may mắn, bình an đồng thời xua đuổi những điều xui xẻo, những “kẻ tiểu nhân” đi theo quấy rối mình.