Hòa giải cơ sở: Cần nhiều hơn những tấm lòng

Hòa giải cơ sở: Cần nhiều hơn những tấm lòng
(PLO) -  Cần nhận thức rõ: hòa giải ở cơ sở là một trong các cơ chế giải quyết xung đột xã hội rất nhân văn, ít tốn kém, hiệu quả cao, giá trị bền vững; là nội dung, phương thức thực hiện dân chủ hóa đời sống của người dân tại cộng đồng. Duy trì, củng cố, phát triển hòa giải ở cơ sở là trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân, là  nhiệm vụ của các cấp, các ngành, tổ chức, đoàn thể, trong đó Mặt trận Tổ quốc giữ vai trò nòng cốt.

Trong những năm qua, hoà giải ở cơ sở luôn được Đảng, Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân quan tâm, tạo điều kiện duy trì, củng cố và phát triển. Nhờ vậy, đến nay hầu hết các thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố trong cả nước đều có tổ hòa giải ở cơ sở. Hòa giải góp phần giải quyết có hiệu quả các tranh chấp, mâu thuẫn, vi phạm pháp luật ngay tại cơ sở; củng cố, duy trì, phát triển khối đoàn kết, đạo lý truyền thống tốt đẹp, thuần phong, mỹ tục của dân tộc.

Tính đến hết tháng 12/2017, cả nước có 107.561 tổ hòa giải với 651.215 hòa giải viên. Hàng năm, đội ngũ hòa giải viên trên cả nước đã thực hiện hòa giải phần lớn các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật thuộc phạm vi hòa giải trong cộng đồng dân cư. Tỷ lệ hòa giải thành trung bình đạt gần 80%. Hòa giải góp phần giảm thiểu vi phạm pháp luật, khiếu nại, tố cáo, áp lực cho cơ quan nhà nước; tiết kiệm thời gian, công sức, tiền của cho Nhà nước và nhân dân; giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, tạo sự đồng thuận xã hội, ổn định, phát triển đất nước. 

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hòa giải ở cơ sở vẫn còn gặp khó khăn, tồn tại, hạn chế, bất cập:

Thứ nhất, hòa giải ở cơ sở chưa thực sự được coi trọng; chưa được ứng xử đầy đủ như với một trong các cơ chế giải quyết xung đột xã hội. 

 Thứ hai, chất lượng, hiệu quả hòa giải ở cơ sở chưa cao, không đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Nhiều mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật thuộc phạm vi hòa giải ở cơ sở chưa được phát hiện, hoặc được phát hiện nhưng chưa được hòa giải, hòa giải không kịp thời, hòa giải không thành, trở lên nghiêm trọng, gay gắt“cái sảy nảy cái ung“. 

Thứ ba, đội ngũ hòa giải viên thường xuyên biến động. Trình độ học vấn, kiến thức pháp luật, kỹ năng, nghiệp vụ hòa giải của đa số hòa giải viên còn thấp. Trong quá trình hòa giải, vẫn còn tình trạng hòa giải viên vi phạm quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở, gây tác động tiêu cực đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, giảm chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở và tính nghiêm minh của pháp luật, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Những khó khăn, tồn tại, hạn chế, bất cập nói trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu: vị trí, vai trò, ý nghĩa xã hội, nhân văn của hòa giải ở cơ sở chưa được nhận thức đầy đủ, đúng tầm; thể chế, chính sách chưa thực sự đồng bộ, có chỗ chưa phù hợp; quản lý nhà nước còn bất cập, thiếu hiệu quả. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận chưa thường xuyên, thiếu chủ động. Cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức, đoàn thể ở một số địa phương chưa thật sự quan tâm...

Để tiếp tục phát huy những giá trị nhân văn cao đẹp, khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập trong thời gian qua, hòa giải ở cơ sở cần có bước phát triển mạnh mẽ, trong đó tập trung thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:

Tiếp tục phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa xã hội, nhân văn của hòa giải ở cơ sở. Cần nhận thức rõ: hòa giải ở cơ sở là một trong các cơ chế giải quyết xung đột xã hội rất nhân văn, ít tốn kém, hiệu quả cao, giá trị bền vững; là nội dung, phương thức thực hiện dân chủ hóa đời sống của người dân tại cộng đồng. Duy trì, củng cố, phát triển hòa giải ở cơ sở là trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân, là  nhiệm vụ của các cấp, các ngành, tổ chức, đoàn thể, trong đó Mặt trận Tổ quốc giữ vai trò nòng cốt.

Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ hòa giải, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở; hướng dẫn, chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, tổ chức, đoàn thể trong công tác hòa giải ở cơ sở. Nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh, khắc phục kịp thời những hạn chế, bất cập của Luật Hòa giải ở cơ sở, các văn bản hướng dẫn thi hành và các quy định pháp luật liên quan, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, phù hợp cho hòa giải ở cơ sở.

Hoàn thiện việc xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và sau khi được phê duyệt, khẩn trương triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án “Kiện toàn và nâng cao năng lực đội ngũ hòa giải viên ở cơ sở giai đoạn 2018-2025”.

Các cơ quan, tổ chức có liên quan cần chủ động thực hiện đúng trách nhiệm quản lý nhà nước về hòa giải cơ sở; quan tâm bố trí, hỗ trợ kinh phí, trước hết bảo đảm chi thù lao cho hòa giải viên và tổ hòa giải hoạt động theo quy định của pháp luật; tích cực huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài hỗ trợ cho hoạt động hòa giải phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế tại bộ, ngành, đoàn thể, địa phương.

Thực hiện tốt việc đánh giá nội dung kết quả công tác hòa giải ở cơ sở trong tiêu chí về xây dựng xã nông thôn mới (Mục 18.5 tiêu chí thứ 18 Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020).

Đọc thêm

Nâng cao nhận thức pháp luật và khả năng tiếp cận tín dụng có bảo đảm

Nâng cao nhận thức pháp luật và khả năng tiếp cận tín dụng có bảo đảm
(PLVN) - Trong 02 ngày từ 27-28/3/2024, tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, với sự hỗ trợ bởi Chương trình “Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam” (EU JULE) do Liên minh Châu Âu tài trợ với sự đóng góp tài chính của hai cơ quan thuộc Liên hợp quốc là UNDP và UNICEF, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp đã tổ chức Lớp tập huấn cho cán bộ địa phương về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và đăng ký biện pháp bảo đảm.

Dự án Luật Thủ đô (sửa đổi): Quy định rõ cơ chế, giới hạn áp dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát

 Đại biểu Phạm Trọng Nghĩa phát biểu tại Hội nghị.
(PLVN) - Sáng 26/3, tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 5, nhiệm kỳ khóa XV, cho ý kiến về dự án Luật Thủ đô (sửa đổi), các đại biểu Quốc hội nhấn mạnh, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát là mô hình mới, chưa có thực tiễn kiểm nghiệm. Do đó, cần tiếp cận nội dung này theo hướng thận trọng, bảo đảm kiểm soát tốt.

Đảm bảo chất lượng, thời gian đào tạo nghề công chứng

Công chứng viên giải quyết yêu cầu của khách hàng (ảnh MH).
(PLVN) - Để góp phần nâng cao chất lượng đầu vào của đội ngũ Công chứng viên (CCV), dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) quy định người muốn hành nghề công chứng đều phải tham dự khóa đào tạo nghề công chứng. Quy định này cũng phù hợp với pháp luật các nước theo hệ thống công chứng Latinh.

TP.Thủ Đức: Cưỡng chế bàn giao đất cho người được thi hành án

TP.Thủ Đức: Cưỡng chế bàn giao đất cho người được thi hành án
(PLVN) -Ngày 25-3, Chi cục thi hành án dân sự (THADS) TP. Thủ Đức, TP.HCM đã tổ chức thi hành xong Bản án số 1027/2018/DSPT ngày 12-11-2018 của TAND TP.HCM; Quyết định giám đốc thẩm số 167/2019/DS-GDT ngày 4-7-2019 của TAND cấp cao tại TP.HCM; Quyết định thi hành án số 994/QĐ- CCTHADS ngày 3-12-2018 của Chi cục Trưởng Chi cục THADS TP. Thủ Đức.

Tiếp tục tháo gỡ “điểm nghẽn” trong triển khai Đề án 06 trong lĩnh vực hộ tịch

Quang cảnh buổi làm việc.
(PLVN) -Sáng 25/3, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh đã chủ trì cuộc làm việc với các đơn vị về tháo gỡ các vướng mắc triển khai Đề án 06 của Chính phủ về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia, giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến 2030 trong lĩnh vực hộ tịch.

Tăng cường quản lý nhà nước trong hoạt động công chứng

Người dân thực hiện thủ tục về công chứng (ảnh MH, Báo VP).
(PLVN) - Tính đến nay, nước ta có hơn 3.300 công chứng viên (CCV) với gần 1.300 tổ chức hành nghề công chứng (TCHNCC). Để đảm bảo sự phát triển liên tục, ổn định, bền vững của các tổ chức này, dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) đã quy định nguyên tắc phát triển tổ chức hành nghề công chứng phải căn cứ vào điều kiện kinh tế-xã hội, diện tích, số lượng và mật độ phân bố dân cư, nhu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch trên địa bàn cấp huyện dự kiến thành lập.