Cần hướng dẫn cụ thể về việc xác định giá tài sản kê biên

Cưỡng chế THADS ở TX Quảng Yên, Quảng Ninh. Ảnh minh họa
Cưỡng chế THADS ở TX Quảng Yên, Quảng Ninh. Ảnh minh họa
(PLVN) - Vấn đề định giá tài sản kê biên được quy định tại Điều 98 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 (Luật THADS); Điều 25, Điều 26 Nghị định 62/2015/NĐ-CP; Điều 2 Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC; Thông tư số 200/2016/TT-BTC. Theo Điều 98 Luật THADS, có ba cách để xác định giá khởi điểm tài sản kê biên, gồm: Định giá bằng sự thỏa thuận của đương sự; định giá do tổ chức thẩm định giá thực hiện và định giá do Chấp hành viên xác định. 

Nên rút ngắn thời hạn chờ ý kiến chuyên môn

Theo quy định tại khoản 3 Điều 98 Luật THADS, chấp hành viên tiến hành xác định giá tài sản trong các trường hợp sau:

Một là: Không thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật THADS. Các trường hợp không thực hiện được việc ký hợp đồng dịch vụ thẩm định giá bao gồm: 

Trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên không có tổ chức thẩm định giá và đương sự không thỏa thuận được tổ chức thẩm định giá hoặc thỏa thuận được nhưng tổ chức thẩm định giá do đương sự thỏa thuận từ chối ký hợp đồng. 

Chấp hành viên không thực hiện được việc ký hợp đồng thẩm định giá theo quy định tại khoản 2 Điều 98 Luật THADS và cũng không thực hiện được việc ký hợp đồng thẩm định giá theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.

Theo đó, trường hợp chấp hành viên không thể ký được hợp đồng định giá thì chấp hành viên tham khảo ý kiến của cơ quan tài chính cùng cấp hoặc cơ quan chuyên môn quản lý ngành, lĩnh vực của tài sản kê biên trước khi xác định giá của tài sản kê biên.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của chấp hành viên mà cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn không có ý kiến bằng văn bản thì Thủ trưởng cơ quan THADS có văn bản đề nghị Chủ tịch UBND cùng cấp chỉ đạo các cơ quan chuyên môn có ý kiến để chấp hành viên xác định giá tài sản kê biên.

Thực tế trường hợp chấp hành viên không ký được hợp đồng thẩm định giá là ít khi xảy ra do các tổ chức thẩm định giá hiện nay rất phổ biến, tuy nhiên đối với quy định về việc chấp hành viên tự xác định giá  theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP vẫn cần xem xét sửa đổi cho phù hợp.

 Đa số ý kiến cho rằng, quy định thời gian để chờ đợi cơ quan chuyên môn có ý kiến như trên vẫn là quá dài, bởi trong trường hợp cơ quan chuyên môn không có ý kiến, sau khi có văn bản đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp chỉ đạo, chấp hành viên còn phải mất thêm thời gian chờ đợi.

Do đó cần quy định rút ngắn lại thời hạn này từ 15 ngày xuống còn 5 đến 7 ngày để cơ quan chuyên môn có ý kiến về việc định giá tài sản kê biên. Quy định rút ngắn thời hạn này sẽ rút gọn tổng thời gian xin ý kiến của cơ quan tài chính, cơ quan chuyên môn về việc định giá tài sản kê biên. 

Chưa rõ trình tự xử lý tài sản mau hỏng

Hai là: Tài sản kê biên thuộc loại tươi sống, mau hỏng hoặc có giá trị nhỏ mà đương sự không thoả thuận được với nhau về giá. 

Đối với tài sản kê biên thuộc loại “tươi sống, mau hỏng” thì hiện nay chưa có điều luật quy định thế nào là tài sản tươi sống, mau hỏng. Tuy nhiên, theo ngữ nghĩa của cụm từ “tài sản tươi sống, mau hỏng” thì có thể hiểu tài sản tươi sống, mau hỏng là các loại tài sản đặc biệt mà trạng thái hoặc tính chất ban đầu có thể bị hư hỏng khi chịu tác động của sự thay đổi quá mức về nhiệt độ, độ ẩm, thời gian hoặc các điều kiện khách quan khác. Các loại tài sản tươi sống, mau hỏng thường gặp có thể bao gồm các loại: Thịt, cá, hải sản, rau quả tươi hoặc đông lạnh, trứng ấp, cá, cua, tôm sống (đã đánh bắt)... 

Sau khi xác định tài sản kê biên thuộc loại tài sản tươi sống, mau hỏng hoặc tài sản có giá trị nhỏ theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, chấp hành viên yêu cầu người được thi hành  án,  người phải thi hành  án thỏa thuận về giá tài sản kê biên. Nếu đương sự thỏa thuận được thì chấp hành viên lập biên bản về việc đương sự thỏa thuận giá tài sản kê biên.

Trường hợp đương sự không thỏa thuận được thì chấp hành viên tiến hành xác định giá tài sản. Tuy nhiên, Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục xác định giá trong trường hợp này dẫn đến việc thực hiện còn chưa thống nhất (về các thành phần tham gia, thời gian tiến hành, trình tự, thủ tục tiến hành định giá tài sản kê biên...).  Do đó đây cũng là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. 

Khoản 2 Điều 26 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định tài sản kê biên có giá trị nhỏ quy định tại điểm b khoản 3 Điều 98 Luật THADS là tài sản mà tại thời điểm xác định giá, tài sản giống hệt hoặc tương tự chưa qua sử dụng có giá mua bán trên thị trường không quá 10.000.000 đồng.

Như vậy, để xác định được tài sản có giá trị nhỏ, chấp hành viên phải căn cứ vào giá mua bán tài sản giống hệt hoặc tương tự chưa qua sử dụng trên thị trường chứ không được căn cứ vào giá trị còn lại của tài sản kê biên đó. Việc này dẫn đến nhiều bất cập. Bởi việc xác định giá trị của một đồ vật đã sử dụng từ việc so sánh giá trị với đồ vật chưa qua sử dụng là không hợp lý. Quy định này cũng hạn chế việc xử lý tài sản của chấp hành viên trong thực tiễn.

Do đó, cần bỏ căn cứ tính giá trị tài sản trên cơ sở tài sản cùng loại chưa qua sử dụng trên thị trường mà quy định tài sản có giá trị nhỏ là tài sản mà tại thời điểm xác định giá, giá trị tài sản ước tính dưới 10.000.000đ để mở rộng hơn nữa thẩm quyền của chấp hành viên, góp phần rút gọn thủ tục và nâng cao hiệu quả thi hành án. 

Đọc thêm

Dự án Luật Thủ đô (sửa đổi): Quy định rõ cơ chế, giới hạn áp dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát

 Đại biểu Phạm Trọng Nghĩa phát biểu tại Hội nghị.
(PLVN) - Sáng 26/3, tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 5, nhiệm kỳ khóa XV, cho ý kiến về dự án Luật Thủ đô (sửa đổi), các đại biểu Quốc hội nhấn mạnh, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát là mô hình mới, chưa có thực tiễn kiểm nghiệm. Do đó, cần tiếp cận nội dung này theo hướng thận trọng, bảo đảm kiểm soát tốt.

Đảm bảo chất lượng, thời gian đào tạo nghề công chứng

Công chứng viên giải quyết yêu cầu của khách hàng (ảnh MH).
(PLVN) - Để góp phần nâng cao chất lượng đầu vào của đội ngũ Công chứng viên (CCV), dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) quy định người muốn hành nghề công chứng đều phải tham dự khóa đào tạo nghề công chứng. Quy định này cũng phù hợp với pháp luật các nước theo hệ thống công chứng Latinh.

TP.Thủ Đức: Cưỡng chế bàn giao đất cho người được thi hành án

TP.Thủ Đức: Cưỡng chế bàn giao đất cho người được thi hành án
(PLVN) -Ngày 25-3, Chi cục thi hành án dân sự (THADS) TP. Thủ Đức, TP.HCM đã tổ chức thi hành xong Bản án số 1027/2018/DSPT ngày 12-11-2018 của TAND TP.HCM; Quyết định giám đốc thẩm số 167/2019/DS-GDT ngày 4-7-2019 của TAND cấp cao tại TP.HCM; Quyết định thi hành án số 994/QĐ- CCTHADS ngày 3-12-2018 của Chi cục Trưởng Chi cục THADS TP. Thủ Đức.

Tiếp tục tháo gỡ “điểm nghẽn” trong triển khai Đề án 06 trong lĩnh vực hộ tịch

Quang cảnh buổi làm việc.
(PLVN) -Sáng 25/3, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh đã chủ trì cuộc làm việc với các đơn vị về tháo gỡ các vướng mắc triển khai Đề án 06 của Chính phủ về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia, giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến 2030 trong lĩnh vực hộ tịch.

Tăng cường quản lý nhà nước trong hoạt động công chứng

Người dân thực hiện thủ tục về công chứng (ảnh MH, Báo VP).
(PLVN) - Tính đến nay, nước ta có hơn 3.300 công chứng viên (CCV) với gần 1.300 tổ chức hành nghề công chứng (TCHNCC). Để đảm bảo sự phát triển liên tục, ổn định, bền vững của các tổ chức này, dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) đã quy định nguyên tắc phát triển tổ chức hành nghề công chứng phải căn cứ vào điều kiện kinh tế-xã hội, diện tích, số lượng và mật độ phân bố dân cư, nhu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch trên địa bàn cấp huyện dự kiến thành lập.

Tạo điều kiện thuận lợi cho người nhận chăm sóc thay thế, nhận nuôi con nuôi

Quang cảnh cuộc họp
(PLVN) -Chiều 21/3, Bộ Tư pháp tổ chức họp Ban soạn thảo, Tổ biên tập xây dựng dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi và Nghị định số 24/2019/NĐ-CP ngày 5/3/2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi.