Trong số 15 cô gái đẻ thuê người Việt vừa được giải cứu ở Thái Lan, có hai người đã sinh con, 8 người mang thai. Một câu hỏi lớn đặt ra là số phận những đứa trẻ được đẻ thuê ra sao, khichúng hoàn toàn khác huyết thống với những người mẹ Việt mang nặng đẻ đau ra chúng?.
Ảnh minh họa
Rẻ rúng tình mẫu tửVề mặt sinh học, giữa những đứa trẻ được các cô gái Việt đẻ thuê đã sinh ra hay đang mang nặng đẻ đau kia không hề có mối liên hệ huyết thống nào. Bởi đơn giản các cô gái chỉ cho thuê tử cung, còn phôi thai đứa trẻ được hình thành từ nguồn trứng và tinh trùng của những người đàn ông và phụ nữa khác - những người thuê đẻ. Nhưng, ở đời đâu phải cái gì cũng có thể chỉ nhìn dưới góc độ khoa học...
Quá trình chửa đẻ của một người phụ nữ thì ai cũng rõ. Từ một chấm phôi thai li ti, kết tinh của người cha và người mẹ, để có thể thành người sau 9 tháng 10 ngày nhất thiết phải được nuôi nấng trong chính cơ thể của người mẹ (hay một người phụ nữ khác nếu là trường hợp đẻ thuê). Và chính máu thịt của người mang thai sẽ cho đứa trẻ hình hài, trí khôn, những tập tính bản năng của con người. Nằm trong bụng mẹ, sinh linh bé bỏng lắng nghe nhịp tim mẹ mà yên tâm, ra đời hài nhi nhỏ xíu cựa mình lớn lên với những dòng sữa non từ bầu ngực mẹ...
Thế nhưng, đối với những đứa trẻ được đẻ thuê, thì những người mẹ đẻ thuê không biết cha mẹ đẻ của những hài nhi mà mình mang nặng đẻ đau là ai đã đành, mà bản thân họ đang thấy khó xử với chúng.
Cô T.B (SN 1988, quê ở Sóc Trăng) đang không biết phải làm gì với cái bụng bầu song sinh 4 tháng vì cô phải tha hương trong tình cảnh gia đình rất khó khăn. Cũng thê thảm như T.B, Nguyễn Kim Th. ở Hậu Giang mang thai song sinh 7 tháng. “Giờ em không biết làm sao, tiền đâu đẻ và nuôi chúng. Em chỉ cần biết cha mẹ chúng là ai để trả lại và xin họ tấm vé máy bay về Việt
Nghe những lo lắng này mà sao thấy đau lòng. Bởi tình mẫu tử luôn đến với con người một cách tự nhiên, vượt lên những toan tính của lý trí. Những ai đã từng chứng kiến sự ra đời của một con người đều hiểu rằng phải mất bao nhiêu khí huyết của người mẹ...
Bế tắc câu trả lời
Ra sao số phận những đứa trẻ được đẻ thuê? Đó là câu hỏi mà rất nhiều người đã đặt ra khi mấy ngày nay theo dõi tin tức về vụ đẻ thuê này. Câu chuyện xảy ra ở Thái Lan và luật pháp Thái Lan không hề cho phép mang thai hộ theo hình thức thương mại hóa.
Thậm chí hành vi này còn bị ghép vào tội danh buôn người (pháp luật rất nhiều nước cũng coi việc đẻ thuê chính là hành vi mua bán trẻ sơ sinh và bị nghiêm cấm, thậm chí phải ngồi tù như ở Trung Quốc, Úc...; nhiều quốc gia trên thế giới cũng không thừa nhận việc đẻ thuê là hợp pháp). Với Việt
Theo một chuyên gia của Tổ chức “Save the Children” (Bảo vệ trẻ em), về mặt sinh học, những người phụ nữ Việt
Còn theo quan điểm của ông Bùi Đình Chăm - Tham tán phụ trách lãnh sự của Đại sứ quán Việt
Pháp luật Việt
Cũng theo quy định, các cặp vợ chồng sau khi có con bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm, nếu không có nhu cầu sử dụng số phôi còn dư thì có thể tặng lại cho cơ sở y tế nơi lưu giữ số phôi đó với sự đồng ý của cả hai vợ, chồng thông qua hợp đồng tặng, cho. Phôi của người cho có thể được sử dụng cho một người. Người nhận phôi phải là người vợ trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh mà nguyên nhân vô sinh là do cả vợ lẫn chồng.
Mang thai hộ: Rủi ro khôn cùng
Tuy câu chuyện đã từng xảy ra dưới đây không phải là hình thức mang thai hộ thương mại hóa nhưng nó cũng cho thấy sự nguy hiểm của việc mang thai hộ một khi hợp đồng bị “lật kèo” vì những lý do hết sức... tình người. Cũng hiếm muộn và cùng làm thụ tinh ống nghiệm tại một bệnh viện lớn tại Hà Nội, thế nhưng vợ chồng chị Nguyễn Thị Th (ở Thanh Trì, Hà Nội) đã thất bại, còn vợ chồng chị H lại thành công với bốn phôi thai. Tuy nhiên, bác sĩ chỉ cấy ba phôi vào tử cung chị H và còn dư một phôi. Thấy vậy, chị Th ngỏ ý xin phôi còn lại và vợ chồng chị H đồng ý cho. May mắn, chị Th là người duy nhất đậu được thai ngày hôm đó, còn vợ chồng H đã bị hỏng. Ngày đứa trẻ chào đời, vợ chồng chị Th vui mừng vì cháu là bé trai, mặc dù biết đứa trẻ này là phôi thai của vợ chồng H cho chứ không phải của mình nhưng chị Th vẫn thương yêu con như chính đứa con cùng huyết thống. Éo le, gia đình nhà chồng H là con một và nguy cơ cô phải li dị vì không sinh được con đã đến. Đến bệnh viện nơi mình gửi phôi, cô được biết phôi thai năm trước cô cho vợ chồng Th giờ đã trở thành một bé trai. H tìm đến gia đình Th cầu xin cho nhận lại con với bằng chứng cùng huyết thống. Cùng cảnh ngộ hiếm muộn, chị Th chấp nhận để vợ chồng H bế con đi với niềm an ủi đứa trẻ sẽ là con chung, nhưng không lâu sau vợ chồng H chuyển nhà đi nơi khác, chị chấp nhận cảnh “mang thai hộ”.