Cải cách tư pháp năm 1950 và vị trí của hoạt động thi hành án dân sự

Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng tại Hội nghị triển khai công tác THADS năm 2016.
Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng tại Hội nghị triển khai công tác THADS năm 2016.
(PLO) -Năm 1949- 1950, đất nước ta bước vào một giai đoạn mới, dựa trên cơ sở nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tòa án phải “hướng hẳn về quyền lợi của nhân dân” và là “một công cụ của chính quyền nhân dân, một công cụ chiến đấu cách mạng và xây dựng xã hội chủ nghĩa”. Trên cơ sở đó, cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất đã dân chủ hóa hoạt động tư pháp, đặt nền móng cho sự ra đời của “nền tư pháp nhân dân”.
 

 Từ cải cách tư pháp năm 1950 mang lại hai sự sự thay đổi căn bản trong hoạt động THADS.

1. Vài nét về cuộc cải cách tư pháp năm 1950

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, các Tòa án đã góp phần trấn áp bọn phản cách mạng một cách mạnh mẽ, góp phần tích cực bảo vệ chính quyền nhân dân non trẻ. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều tiến bộ nhưng tổ chức của các Tòa án còn mang “những dấu vết của Tổ chức tòa án tư sản”, “chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng pháp lý tư sản”, một số Tòa án đã “thi hành luật cũ, bảo vệ quyền tư hữu tuyệt đối của thiểu số và thực hiện sự bóc lột đối với nhân dân lao động”.

Vì vậy, các Tòa án giai đoạn này được đánh giá là có “khuynh hướng tách rời công tác xét xử với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của chính quyền nhân dân”.

Năm 1949- 1950, đất nước ta bước vào một giai đoạn mới, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chuyển sang giai đoạn Tổng phản công.

Lý luận về xây dựng chính quyền nhân dân trên cơ sở nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin yêu cầu “loại bỏ không khoan nhượng đối với mọi hình thức của chế độ bóc lột”, Tòa án phải “hướng hẳn về quyền lợi của nhân dân” và là “một công cụ của chính quyền nhân dân, một công cụ chiến đấu cách mạng và xây dựng xã hội chủ nghĩa”.

Trên cơ sở đó, cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất đã dân chủ hóa hoạt động tư pháp, đặt nền móng cho sự ra đời của “nền tư pháp nhân dân”.

Cụ thể hóa chủ trương này, về luật nội dung, Sắc lệnh số 97-SL Cải cách quyền dân sự ngày 22-5-1950 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký khẳng định “Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân”, các Tòa án có thẩm quyền “Hủy tiêu khế ước khi một bên lập ước lợi dụng sự chênh lệch về địa vị kinh tế giữa hai bên, sự túng quẫn của người lập ước bên kia mà bóc lột người đó”.

Như vậy, các quan niệm cho rằng quyền dân sự (quyền sở hữu, quyền của chủ nợ đối với con nợ…) không còn có tính tuyệt đối mà nó chỉ được bảo vệ nếu “đúng với quyền lợi của nhân dân”. Ngành Tư pháp có trọng trách lớn lao là bảo vệ quyền lợi của nhân dân thông qua việc loại bỏ mọi hình thức người bóc lột người.

Về luật thủ tục, Sắc lệnh 85-SL ngày 22-5-1950 Cải cách bộ máy tư pháp và luật Tố tụng do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký khẳng định sự ra đời của một thiết chế tư pháp mang tính chất nhân dân hơn, cách mạng hơn mang với tên gọi “Tòa án nhân dân”. Chế định hội thẩm nhân dân ra đời thay thế chế định Phụ thẩm nhân dân tại Sắc lệnh số 13 trước đây với thành phần đa số và quyền hạn ngang với thành phần chuyên môn. Việc xử án không còn chỉ thuần túy là công việc chuyên môn, là sản phẩm độc quyền của Thẩm phán mà đó là hoạt động của nhân dân.

Nhìn chung, cải cách tư pháp năm 1950 mang lại những kết quả rõ rệt, “các Tòa án nhân dân đã góp phần tích cực vào việc bảo vệ kháng chiến và bảo vệ việc thực hiện những đường lối, chính sách của cách mạng”.

2. Vị trí của hoạt động THADS trong cải cách tư pháp năm 1950

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, trên cơ sở Sắc lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc tạm thời giữ các luật lệ hiện hành của chế độ cũ ở Bắc, Trung, Nam Bộ nếu “không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể cộng hòa”, hoạt động thừa phát lại tiếp tục được duy trì cho đến năm 1950.

Đồng thời, Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 cũng quy định Ban Tư pháp có quyền thi hành những mệnh lệnh của Thẩm phán cấp trên, bao gồm cả bản án, quyết định của Tòa án.

Như vậy, trong những năm đầu của Nhà nước cách mạng nhân dân, tổ chức hoạt động THADS đã được hình thành và tồn tại song song hai lực lượng là Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã. 

Đến năm 1950 do tình hình cách mạng có nhiều chuyển biến, Tờ trình ban hành Sắc lệnh số 97-SL Cải cách quyền dân sự ngày 22-5-1950 của Bộ Tư pháp nhận định “Sắc lệnh ngày 10-10-1945 có tạm giữ để thi hành những pháp điển cũ dưới thời Pháp thuộc, trong khi chờ đợi sự ban hành những bộ luật mới cho nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Từ ngày ký sắc lệnh ấy tới nay với thời gian và sự biến đổi mau chóng của tình trạng xã hội Việt Nam, do cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc thúc đẩy, các pháp điển cũ dần bị vượt bước bởi sự tiến hóa chung, và một số điều khoản trong các bộ luật ấy trở nên lạc hậu, phải trái quá rõ rệt với tinh thần mới và sự tiến bộ của toàn dân.

Vì lẽ đó, trong khi chờ đợi toàn bộ dân pháp điển mới được ban hành, Bộ Tư pháp xét thấy cần đề nghị lên Chính phủ và Quốc hội dự án một sắc lệnh sửa đổi cấp bách một số quy lệ và chế định trong dân luật cũ và đặt những nguyên tắc mới thay vào”.

Tờ trình Sắc lệnh số 85-SL ngày 22-5-1950 cải cách bộ máy Tư pháp và luật Tố tụng của Bộ Tư pháp tiếp tục nhận định “Việc cải cách có mục đích làm nhẹ bộ máy Tư pháp để công việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn”, “Thủ tục tố tụng cần được hợp lý hơn và giản dị hơn” và “Để có thể giải quyết mau chóng những việc cấp bách về mặt Hộ, tránh sự thiệt hại cho đương sự và khỏi tổn phí cho đương sự phải lên Tòa án tỉnh, cần giao cho Tòa án nhân dân huyện quyền ấn định các phương pháp bảo thủ, dù việc xử kiện không thuộc thẩm quyền Tòa án nhân dân huyện”.

Cùng với sự ra đời của thiết chế dân chủ, tiến bộ là Tòa án nhân dân và với quan điểm nêu trên, Điều 19 Sắc lệnh số 85-SL quy định:

“Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý có nhiệm vụ đem chấp hành các án hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn và các án hộ, mà chính Tòa án huyện hoặc tòa án trên đã tuyên.

Việc phát mại bất động sản và phân phối tiền bán được cũng do tòa án huyện phụ trách. Trong trường hợp có nhiều bất động sản rải rác ở nhiều huyện khác nhau thì Biện lý sẽ chỉ định một thẩm phán huyện để việc phát mại đó vừa có lợi cho chủ nợ”.

Như vậy, cải cách tư pháp năm 1950 mang lại hai sự sự thay đổi căn bản trong hoạt động THADS. Thứ nhất, thẩm phán thay thế thừa phát lại và Ban tư pháp xã thực hiện hoạt động THADS. Thứ hai, hoạt động THADS từ chỗ căn cứ vào yêu cầu của đương sự đã trở thành nhiệm vụ, trách nhiệm của chế độ, Nhà nước nhân dân, Tòa án chủ động thi hành án mà không chờ yêu cầu của người được thi hành án.

Tài liệu tham khảo:

1. Hội luật gia Việt Nam (1975), Pháp lý phục vụ cách mạng, tr.66, 67.

2. Trần Công Tường (1950), Tập bài viết về công tác tư pháp năm 1950, tại Thư viện Bộ Tư pháp, ký hiệu: V10400.

3. Việt Nam Dân quốc Công báo số 6 năm 1950, tr.134.

4. Viện Khoa học pháp lý (1999), Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự-Thực trạng và Phương hướng đổi mới, tr.36.

Đọc thêm

Bạc Liêu: Triển khai các Luật mới được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 6

Bạc Liêu: Triển khai các Luật mới được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 6
(PLVN) - Sáng 28/3, Sở Tư pháp - Cơ quan thường trực Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật tỉnh Bạc Liêu tổ chức Hội nghị trực tiếp và được kết nối trực tuyến đến các điểm cầu cấp huyện, cấp xã triển khai các Luật mới được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 6, Kỳ họp bất thường lần thứ 5. Ngoài điểm cầu chính, Hội nghị còn kết nối trực tuyến đến 7 điểm cầu cấp huyện và 64 điểm cầu cấp xã.

Nâng cao nhận thức pháp luật và khả năng tiếp cận tín dụng có bảo đảm

Nâng cao nhận thức pháp luật và khả năng tiếp cận tín dụng có bảo đảm
(PLVN) - Trong 02 ngày từ 27-28/3/2024, tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, với sự hỗ trợ bởi Chương trình “Tăng cường pháp luật và tư pháp tại Việt Nam” (EU JULE) do Liên minh Châu Âu tài trợ với sự đóng góp tài chính của hai cơ quan thuộc Liên hợp quốc là UNDP và UNICEF, Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp đã tổ chức Lớp tập huấn cho cán bộ địa phương về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và đăng ký biện pháp bảo đảm.

Dự án Luật Thủ đô (sửa đổi): Quy định rõ cơ chế, giới hạn áp dụng cơ chế thử nghiệm có kiểm soát

 Đại biểu Phạm Trọng Nghĩa phát biểu tại Hội nghị.
(PLVN) - Sáng 26/3, tại Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ 5, nhiệm kỳ khóa XV, cho ý kiến về dự án Luật Thủ đô (sửa đổi), các đại biểu Quốc hội nhấn mạnh, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát là mô hình mới, chưa có thực tiễn kiểm nghiệm. Do đó, cần tiếp cận nội dung này theo hướng thận trọng, bảo đảm kiểm soát tốt.

Đảm bảo chất lượng, thời gian đào tạo nghề công chứng

Công chứng viên giải quyết yêu cầu của khách hàng (ảnh MH).
(PLVN) - Để góp phần nâng cao chất lượng đầu vào của đội ngũ Công chứng viên (CCV), dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) quy định người muốn hành nghề công chứng đều phải tham dự khóa đào tạo nghề công chứng. Quy định này cũng phù hợp với pháp luật các nước theo hệ thống công chứng Latinh.

TP.Thủ Đức: Cưỡng chế bàn giao đất cho người được thi hành án

TP.Thủ Đức: Cưỡng chế bàn giao đất cho người được thi hành án
(PLVN) -Ngày 25-3, Chi cục thi hành án dân sự (THADS) TP. Thủ Đức, TP.HCM đã tổ chức thi hành xong Bản án số 1027/2018/DSPT ngày 12-11-2018 của TAND TP.HCM; Quyết định giám đốc thẩm số 167/2019/DS-GDT ngày 4-7-2019 của TAND cấp cao tại TP.HCM; Quyết định thi hành án số 994/QĐ- CCTHADS ngày 3-12-2018 của Chi cục Trưởng Chi cục THADS TP. Thủ Đức.

Tiếp tục tháo gỡ “điểm nghẽn” trong triển khai Đề án 06 trong lĩnh vực hộ tịch

Quang cảnh buổi làm việc.
(PLVN) -Sáng 25/3, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh đã chủ trì cuộc làm việc với các đơn vị về tháo gỡ các vướng mắc triển khai Đề án 06 của Chính phủ về phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia, giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến 2030 trong lĩnh vực hộ tịch.

Tăng cường quản lý nhà nước trong hoạt động công chứng

Người dân thực hiện thủ tục về công chứng (ảnh MH, Báo VP).
(PLVN) - Tính đến nay, nước ta có hơn 3.300 công chứng viên (CCV) với gần 1.300 tổ chức hành nghề công chứng (TCHNCC). Để đảm bảo sự phát triển liên tục, ổn định, bền vững của các tổ chức này, dự thảo Luật Công chứng (sửa đổi) đã quy định nguyên tắc phát triển tổ chức hành nghề công chứng phải căn cứ vào điều kiện kinh tế-xã hội, diện tích, số lượng và mật độ phân bố dân cư, nhu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch trên địa bàn cấp huyện dự kiến thành lập.